Bình luận các quy định trong Quy chế ban hành theo Quyết định 637/UBCK năm 2011 về chứng khoán được phép mua ký quỹ
1. Đặt vấn đề
Không phải chứng khoán nào cũng được phép mua ký quỹ. Muốn "lọt" vào danh sách mua ký quỹ của công ty chứng khoán, chứng khoán niêm yết phải trải qua 3 vòng, vòng một từ các quy định của UBCKNN, vòng hai từ Sở giao dịch chứng khoán và vòng ba từ các công ty chứng khoán. UBCKNN nêu ra các điều kiện chung để "loại" những chứng khoán không đủ tiêu chuẩn ra khỏi danh sách chứng khoán có thể mua ký quỹ. Trên cơ sở đó, Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
công bố danh sách chứng khoán không được phép giao dịch ký quỹ trên HOSE và Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội công bố danh sách chứng khoán không được phép giao
dịch ký quỹ trên sàn HNX. Từ đó, các công ty chứng khoán lựa chọn danh sách chứng
khoán được phép mua ký quỹ phù hợp với mình.
2. Bình luận
Chỉ có cổ phiếu và chứng
chỉ quỹ niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung, là sàn giao dịch chứng
khoán TP.HCM (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) mới nằm trong
danh mục ký quỹ. Đồng thời, UBCKNN đặt ra các điều kiện để loại các chứng
khoán ra khỏi danh mục có thể ký quỹ trong Điều 10 của Quyết định
637/QĐ-UBCK năm 2011 là hợp lý vì nó đảm bảo sự an toàn cho các nhà đầu tư,
công ty chứng khoán, tổ chức phát hành và cả TTCK:
Thứ nhất, “Có thời gian niêm yết dưới 06 tháng
tính đến thời điểm công bố danh sách; trường hợp cổ phiếu chuyển sàn niêm yết
thì thời gian niêm yết được tính là tổng thời gian niêm yết ở cả hai Sở Giao dịch
chứng khoán”[1].
Quy định thời gian tối thiểu niêm yết để đảm bảo cổ phiếu đó đã được thị trường
nhận diện, theo dõi. Các chủ thể tham gia, quản lý thị trường đã có những hiểu
biết nhất định về cổ phiếu đó, qua đó giúp khách hàng đầu tư hợp lý hơn, các
công ty chứng khoán và cơ quan Nhà nước quản lý tốt hơn.
Thứ hai, “Bị đặt trong tình trạng bị tạm ngừng
giao dịch, bị đưa vào diện cảnh báo, bị hủy niêm yết, bị đưa vào diện kiểm
soát”[2]. Cổ
phiếu, chứng chỉ quỹ của các tổ chức phát hành đang có vấn đề trong hoạt động của
mình dẫn đến bị tạm ngừng giao dịch, cảnh báo,…thì không được phép mua ký quỹ.
Đây là quy định hợp lý để đảm bảo cho quyền lợi nhà đầu tư và thị trường. Một cổ
phiếu đã rơi vào tình trạng như vậy thường do kinh doanh kém, gặp các vấn đề về
tài chính và quản trị, do đó không thể hi vọng gì vào việc trong ngắn hạn nó sẽ
tăng giá. Mà mục đích của mua ký quỹ là mong muốn nó tăng giá. Tương tự như vậy
là trường hợp “Kết quả kinh doanh của tổ chức niêm yết chứng khoán là có lỗ căn
cứ trên báo cáo tài chính gần nhất đã kiểm toán hoặc có ý kiến soát xét của tổ
chức kiểm toán (tùy trường hợp nào gần nhất thời điểm xem xét); Trường hợp tổ
chức niêm yết là quỹ đầu tư đại chúng, có tối thiểu một tháng có giá trị tài sản
ròng (NAV) tính trên một đơn vị chứng chỉ quỹ nhỏ hơn mệnh giá căn cứ trên báo
cáo thay đổi giá trị tài sản ròng hàng tháng xét trong 03 tháng liên tiếp tính
đến thời điểm được lựa chọn để giao dịch ký quỹ”[3].
Ngoài ra, còn có một số hạn chế mua ký quỹ đối với một số trường
hợp sau:
Thứ nhất, hạn chế dòng tiền mua ký quỹ đi vào
các cổ phiếu liên quan tới công ty chứng khoán mà khách hàng mở tài khoản bằng
việc không cho phép mua ký quỹ trong trường hợp: “Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu
tư do chính công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành trong vòng sáu (06) tháng
tính từ khi hoàn tất đợt phát hành”[4],
“cổ phiếu của công ty niêm yết sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng
khoán và đối với cổ phiếu của công ty niêm yết do công ty chứng khoán sở hữu từ
50% trở lên vốn điều lệ”[5],
“cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành”[6]. Quy
định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư trên TTCK. Rõ ràng, sẽ là
không công bằng nếu công ty chứng khoán dùng vốn của mình cho các nhà đầu tư
mua lại các cổ phiếu, chứng chỉ quỹ liên quan tới quyền lợi của mình. Ví dụ, nếu
cho phép khách hàng mua ký quỹ cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành
thì chẳng khác nào cho khách hàng dùng tiền của mình mua lại cổ phiếu của chính
mình, qua đó làm tăng giá bất hợp lý cổ phiếu của mình, ảnh hưởng xấu tới
thị trường. Đồng thời, khi tài khoản giao dịch ký quỹ đó rơi vào tình
trạng phải bán giải chấp thì công ty chứng khoán lại phải bán giải chấp
cổ phiếu của chính mình phát hành. Ngoài ra, các công ty chứng khoán chắc
chắn biết rõ tình hình kinh doanh của mình. Khi đó, vì lợi nhuận hoặc một mục
đích nào đó, công ty chứng khoán sẽ phát hành các báo cáo, phân tích khuyến
khích khách hàng mua cổ phiếu của chính mình, cho dù tình hình kinh doanh của
mình không tốt. Điều đó sẽ ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của khách hàng. Thực tế,
các công ty chứng khoán đang làm không tốt việc này. Trong danh mục cổ phiếu được
phép mua ký quỹ cập nhật tại website cafef.vn[7], SSI
cho khách hàng mua ký quỹ cổ phiếu SSI, tương tự là FPTS với cổ phiếu FPT, công
ty cổ phần chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam (CTS) với cổ phiếu CTG[8], công
ty cổ phần chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BSI) với cổ phiếu
BID[9],…Vấn
đề này xuất phát từ áp lực về lợi nhuận của các công ty chứng khoán, các cổ phiếu
SSI, FPT, CTG, BID,… là các cổ phiếu rất được quan tâm trên TTCK, thanh khoản
cao, cho phép khách hàng mua ký quỹ là đem lại doanh thu mua ký quỹ và phí
giao dịch lớn cho các công ty chứng khoán, từ đó tăng lợi nhuận cho họ. Các hoạt
động này đã diễn ra từ rất lâu và vẫn chưa thấy bất kỳ công ty chứng khoán nào
bị phạt. Điều này tạo ra sự bất công bằng với các công ty chứng khoán khác và
đôi khi ảnh hưởng tới quyền lợi của nhà đầu tư. Chế tài xử phạt đã có, “Phạt tiền
từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với công ty chứng khoán vi phạm
quy định về giao dịch ký quỹ chứng khoán”[10],
do đó rất cần UBCKNN kiểm tra và xử phạt với các trường hợp này để đem lại sự
lành mạnh cho TTCK.
Thứ hai, “khi khách hàng không bảo đảm tỷ lệ
ký quỹ theo quy định tại Hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ và các quy định
tại Quy chế này”[11].
Quy định này nhằm tránh rủi ro cho công ty chứng khoán. Vì nếu khách hàng mua
ký quỹ mà không đảm bảo tỷ lệ ký quỹ sẽ gây rủi ro cho các công ty chứng khoán
trong việc thu hồi lại khoản vay. Cũng giống như các ngân hàng làm mọi cách để
hạn chế nợ xấu thì đây cũng là một cách để công ty chứng khoán phòng chống nợ xấu
cho mình.
3. Kết luận.
Các quy định hiện nay của UBCKNN là tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tế việc áp dụng các quy định trên của các chủ thể tham gia TTCK, thậm chí cả việc áp dụng các quy định do chính mình ban hành để quản lý TTCK của UBCKNN cũng chưa tốt. Do đó, cần thiết tất cả các chủ thể tham gia TTCK tuân thủ triệt để các quy định pháp luật nhằm đảm bảo sự vận hành minh bạch, công bằng của TTCK.
[1] Điều 10 khoản 1
Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[2] Điều 10 khoản 2
Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[3] Điều 10 khoản 3
Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[4] Điều 12 khoản 1
điểm a Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[5] Điều 12 khoản 1
điểm b Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[6] Điều 12 khoản 1
điểm c Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[8] Mã cổ phiếu
ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng này cũng là công ty mẹ của CTS.
[9] Mã cổ phiếu
ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng này là công ty mẹ của BSI.
[10] Điều 21 khoản 3
điểm g 108/2013/NĐ-CP.
[11] Điều 12 khoản 1
điểm d Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét