1 1. Đặt
vấn đề
Phạt vi phạm
và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là hai chế tài khá phổ biến trên thực tế
hiện nay. Đây là hai chế tài khác nhau, được quy định trong khá nhiều văn bản
quy phạm pháp luật khác nhau, nổi bật nhất là BLDS 2005 và Luật Thương mại
2005. Hai văn bản quy phạm pháp luật này cũng có những quy định không giống
nhau về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Về nguyên tắc, chế
tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự sẽ thuộc sự điều
chỉnh của BLDS 2005, trong hợp đồng thương mại sẽ thuộc sự điều chỉnh của LTM
2005. Do đó, bài viết này sẽ tập trung phân tích chế tài phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng dân sư và hợp đồng thương mại. Qua đó, hiểu rõ
hơn về sự khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng; sự
khác nhau trong các quy định của BLDS 2005 và Luật thương mại 2005 về vấn đề
này.
2 2. Lý
luận chung
2.1.
Phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại
“Hợp đồng dân
sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự”[1].
Trong khi đó, không có khái niệm “hợp đồng thương mại” trong pháp luật thương mại.
Vì thế, ta có thể lấy định nghĩa từ luật dân sự để định nghĩa “hợp đồng thương
mại” vì BLDS 2005 được coi là một bộ luật chung, bao quát cả những quan hệ về
thương mại. Do đó, có những quan hệ trong hoạt động thương mại giữa các các bên
mà không được quy định trong LTM 2005 thì áp dụng quy định của BLDS 2005. “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”[2].
Như vậy, có thể hiểu “Hợp đồng thương mại là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. “Các bên” ở đây phải
đáp ứng được về đối tượng áp dụng theo điều 2, LTM 2005.
Hai sự
khác nhau cơ bản giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại:
-
Về chủ thể: Với hợp đồng thương mại, bắt
buộc chủ thể phải thoả mãn điều 2, LTM 2005, về cơ bản, đó là các thương nhân.
Còn chủ thể của hợp đồng dân sự rộng hơn rất nhiều, là các cá nhân, tổ chức (có
thể có hoặc không có tư cách pháp nhân). Một điểm cần lưu ý là nếu các thương
nhân giao kết hợp đồng nhưng đó không phải là hợp đồng có liên quan tới các hoạt
động nằm trong phạm vi điều chỉnh của điều 1, LTM 2005 thì hợp đồng đó sẽ được
xem là hợp đồng dân sự. Vi dụ: A và B là thương nhân. Nhà B nuôi một con mèo rất
đẹp. A giao kết hợp đồng mua con mèo từ nhà B về nuôi thì đó là hợp đồng dân sự
chứ không phải là hợp đồng thương mại.
-
Về mục đích của hợp đồng: Mục đích của hợp
đồng thương mại là sinh lợi vì “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi”[3].
Trong khi đó, mục đích của hợp đồng dân sự thường là tiêu dùng.
2.2.
Định nghĩa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng
BLDS 2005 quy
định “Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi
phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”[4].
LTM 2005 quy định “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả
một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ
các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này”[5].
Như vậy, định nghĩa về phạt vi phạm của cả 2 luật là giống nhau, đều chỉ một
khoản tiền mà bên vi phạm nghĩa vụ trả cho bên kia nếu cả 2 bên có thoả thuận
điều này.
BLDS 2005
không có định nghĩa về bồi thường thiệt hại. LTM 2005 thì định nghĩa “Bồi thường
thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp
đồng gây ra cho bên bị vi phạm”[6]. Vận
dụng các quy định có liên quan trong BLDS 2005 thì khái niệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng thương mại của LTM 2005 cũng tương tự như bồi thường thiệt hại cho
các hợp đồng dân sự, đều chỉ nghĩa vụ phải bù đắp những tổn thất do việc vi phạm
hợp đồng gây ra.
2.3.
Sự khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng
Về mặt khái niệm,
phạt vi phạm chỉ một khoản tiền mà bên vi phạm nghĩa vụ phải trả cho bên kia.
Như vậy, khoản tiền này không liên quan gì đến tổn thất mà bên kia phải chịu.
Còn bồi thường thiệt hại chỉ việc bồi đắp những tổn thất mà bên vi phạm nghĩa vụ
phải làm. Như vậy, về nguyên tắc, phải có thiệt hại mới phát sinh nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại. Còn với phạt vi phạm, không có thiệt hại thì vẫn phát sinh
nghĩa vụ trả tiền.
Về mặt mục đích, phạt vi phạm được đặt
ra để răn đe bên kia cố gắng tuân thủ hợp đồng. Còn bồi thường thiệt hại nhằm
bù đắp tổn thất mà bên bị vi phạm phải chịu.
Về căn cứ xác định trách nhiệm, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh khi hội tụ đủ 4 yếu tố sau:
có hành vi vi phạm hợp đồng, lỗi, có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Tất nhiên là vẫn có
ngoại lệ nếu các bên thoả thuận khác. Trách nhiệm phạt vi phạm phát sinh chỉ cần
2 yếu tố: có hành vi vi phạm hợp đồng và lỗi. Thực tế, đôi khi một bên có lỗi
và hành vi vi phạm hợp đồng nhưng không có thiệt hại xảy ra. Lúc này sẽ không phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, còn trách nhiệm trả tiền phạt
vi phạm sẽ phát sinh nếu 2 bên có thoả thuận về điều này. Cần lưu ý là chỉ khi
có thoả thuận về phạt vi phạm thì mới phát sinh trách nhiệm phạt vi phạm. Còn với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì dù trong hợp đồng, 2 bên không thoả thuận
về điều này thì khi hội tụ đủ 4 yếu tố trên thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
vẫn xảy ra. Tất nhiên là pháp luật vẫn dành cho các bên được quyền thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác (sẽ được phân tích ở phần sau).
2.4.
Thế nào là vi phạm hợp đồng?
Về nguyên tắc,
chỉ khi vi phạm hợp đồng mới xuất hiện trách nhiệm phạt vi phạm và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Do đó, xác định thế nào là vi phạm hợp đồng là cực kỳ
quan trọng.
LTM 2005 quy
định “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định
của Luật này”[7].
Về mặt lý luận, vi phạm hợp đồng dẫn đến phát sinh nghĩa vụ trả tiền phạt vi phạm
phải là vi phạm cơ bản, tức là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại
cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp
đồng”[8].
Tuy nhiên, về mặt pháp lý, hiện nay chưa có quy định nào bắt buộc phải là vi phạm
cơ bản thì mới phát sinh trách nhiệm phạt vi phạm. Do đó, bên bị vi phạm hoàn
toàn có quyền yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt vi phạm cho dù đó không phải là
vi phạm cơ bản. Quan điểm của tác giả là ùng hộ việc phạt vi phạm chỉ khi đó là
vi phạm cơ bản. Vì khi một vi phạm mà không ảnh hưởng tới mục đích của việc giao
kết hợp đồng, không có thiệt hại thì theo nguyên tắc thiện chí, hợp tác của
BLDS 2005, các bên nên tiếp tục cùng nhau thực hiện hợp đồng thay vì “chăm
chăm” tìm cách phạt tiền lẫn nhau, ảnh hưởng tới sự bền vũng trong quan hệ của
2 bên.
3 3. Phân
tích phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự và thương mại
3.1.
Phân tích phạt vi phạm trong hợp đồng
dân sự và thương mại
Về khái niệm, như đã phân tích ở mục
2.2, có sự thống nhất với nhau trong cách định nghĩa về phạt vi phạm của BLDS
2005 và LTM 2005. Như vậy, chủ thể có quyền đòi tiền phạt vi phạm là bên bị vi
phạm nghĩa vụ của hợp đồng, chủ thể có trách nhiệm trả tiền phạt vi phạm là bên
vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng, khách thể trong quan hệ này là một khoản tiền, gọi
là tiền phạt.
Về thoả thuận phạt vi phạm, LTM 2005 quy
định “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền
phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận”[9]. BLDS
2005 quy định “Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng… “[10]. Như
vậy, thoả thuận phạt vi phạm là thoả thuận phải có trong hợp đồng ban đầu. Nếu
các bên sau khi giao kết mới có thoả thuận phạt vi phạm thì thoả thuận phạt vi
phạm đó không phù hợp theo quy định này, hoàn toàn có thể bị Toà án tuyên vô hiệu
nếu có tranh chấp. Do đó, một cách khắc phục cho vấn đề này là nếu các bên sau
khi giao kết hợp đồng mới có thoả thuận phạt vi phạm thì thoả thuận đó cần được
quy định trong phụ lục hợp đồng (là một bộ phận của hợp đồng ban đầu), khi đó sẽ
phù hợp với quy định này. Bản thân tác giả không đồng ý với quy định này của
LTM 2005 và BLDS 2005 vì: Cho dù thoả thuận phạt vi phạm xuất hiện trước hay
sau hợp đồng ban đầu thì nó đều có giá trị, vì nó là sự thoả thuận của cả hai
bên. Hai bên có quyền thoả thuận một điều khoản ngoài hợp đồng chứ không nhất
thiết phải đưa nó vào trong hợp đồng. Quy định này vô tình làm hạn chế đi sự tự
do thoả thuận của 2 bên trong quan hệ này.
Về
mức phạt vi phạm, có sự khác nhau trong quy định của
BLDS 2005 và LTM 2005. LTM 2005 quy định “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng,
nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm…”[11].
BLDS 2005 quy định “Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”[12].
Như vậy khi nào áp dụng mức phạt không quá 8% theo LTM 2005, khi nào tự do thoả
thuận mức phạt theo BLDS 2005? Về mặt lý luận, BLDS 2005 được xem là luật
chung, LTM 2005 được xem là luật chuyên ngành. Do đó, ưu tiên áp dụng luật
chuyên ngành với các quan hệ chuyên ngành. Như đã phân tích tại mục 2.1, về
nguyên tắc, với hợp đồng dân sự, 2 bên sẽ tự do thoả thuận mức phạt, với hợp đồng
thương mại, 2 bên tự do thoả thuận theo mức phạt trần là 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm (cần lưu ý là 8% của giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị
vi phạm chứ không phải là 8% giá trị hợp đồng, mà xác định giá trị phần nghĩa vụ
hợp đồng bị vi phạm trên thực tế là một việc cực kỳ khó khăn). Một vấn đề khá
phổ biến hiện nay là nếu thoả thuận mức phạt trên 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm thì sao? Thoả thuận này sẽ bị tuyên vô hiệu do vi phạm điều cấm
của pháp luật hay bị điều chỉnh về lại 8%? Hiện nay, không có một quy phạm pháp
luật nào điều chỉnh vấn đề này, các Toà án khi giải quyết các tranh chấp này
cũng thường đưa mức phạt về lại <= 8%. Do đó, kiến nghị pháp luật cần quy định
cụ thể hơn về vấn đề này. Còn bản thân tác giả ủng hộ cách làm của Toà án khi
đưa mức phạt về <=8% vì: đây là thoả thuận của 2 bên, 2 bên mong muốn có chế
tài phạt vi phạm, do đó cần tôn trọng thoả thuận của 2 bên. Pháp luật lúc này
chỉ giới hạn để tránh bên vi phạm bị thiệt hại quá nhiều cho việc phạt vi phạm,
đó cũng là điều hợp lý. Thực tế các chuyên gia cũng tranh cãi mức 8% có phải là
quá thấp hay không thì quan điểm tác giả mức 8% là hợp lý, vì đây chỉ là biện
pháp “răn đe” các bên không vi phạm nghĩa vụ, nếu có thiệt hại thì bên bị thiệt
hại đã được bồi thường thiệt hại rồi,do đó không thể “mong chờ” mức phạt hợp đồng
cao, vì như vậy sẽ ảnh hưởng lớn tới “kinh tế” của người vi phạm, trong nhiều
trường hợp, bản thân người vi phạm cũng không hề mong muốn chuyện đó xảy ra.
Tuy nhiên, cần lưu ý là mức phạt trần 8% này chỉ áp dụng cho hợp đồng thương mại,
với hợp đồng dân sự, các bên được tự do thoả thuận mức phạt.
Về miễn trách nhiệm bị phạt vi phạm,
nếu vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng dân sự nhưng rơi vào trường hợp bất khả kháng theo khoản 2,
điều 302 BLDS 2005 hay nếu vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thương mại nhưng rơi
vào các trường hợp miễn trách nhiệm tại điều 294 LTM 2005 thì bên vi phạm đều
được miễn trách nhiệm bị phạt vi phạm. Tuy nhiên, BLDS 2005 có quy định “Trong
trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện
bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”[13] ,
điều này có nghĩa rằng nếu có thoả thuận rằng rơi vào trường hợp bất khả kháng,
vẫn bị phạt vi phạm thì khi bên vi phạm rơi vào trường hợp bất khả kháng vẫn phải
bị phạt vi phạm, do pháp luật dành sự ưu tiên cho thoả thuận. Do đó, khi giao kết
hợp đồng, các bên phải đặc biệt chú ý về vấn đề này.
3.2.
Phân tích bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
dân sự và thương mại
Về khái niệm, BLDS 2005
không định nghĩa thế nào là bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Tuy nhiên,
BLDS 2005 có nói đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách
nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền
do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn,
hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Người
gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm,
xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn
thất về tinh thần cho người bị thiệt hại”[14].
Như vậy, tạm hiểu “trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự là là
loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng
gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn
thất mà mình gây ra”[15].
Còn với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại thì tại LTM 2005 có quy
định “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”[16].
Cơ bản thì khái niệm từ góc độ luật dân sự và khái niệm do LTM 2005 quy định
không có gì khác nhau.
Về cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại theo hợp đồng, LTM 2005 có quy định, “…trách nhiệm bồi thường thiệt
hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: Có hành vi vi phạm hợp đồng; Có thiệt
hại thực tế; Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”[17].
Như vậy, lỗi không được đặt ra khi xét đến việc phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thương mại. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
theo hợp đồng dân sự thì về nguyên tắc, phải có đủ 4 yếu tố thì mới phát sinh
nghĩa vụ: có hành vi vi phạm hợp đồng, lỗi, có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên,
do hợp đồng là 2 bên thoả thuận, nên trong trường hợp 2 bên thoả thuận không có
lỗi vẫn phải bồi thường thiệt hại thì pháp luật vẫn tôn trọng sự thoả thuận của
2 bên trong vấn đề này.
Về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng, chỉ có bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mới phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu thiệt hại là do bên thứ 3 gây ra thì lúc
đó sẽ phát sinh thêm quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do đó, các
bên không thể quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên thứ 3 trong hợp
đồng nếu không được sự đồng ý của họ.
Về mức bồi thường thiệt hại, do pháp luật
dân sự ưu tiên thoả thuận nên về nguyên tắc sẽ theo hợp đồng của 2 bên, cụ thể,
các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường bằng, thấp hoặc
cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận. Quy tắc này cũng được
áp dụng cho các hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu các bên
không thoả thuận thì sẽ giải quyết ra sao? Theo LTM 2005 thì “Giá trị bồi thường
thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu
do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng
nếu không có hành vi vi phạm”[18].
Như vậy, nếu các bên không thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại thì về nguyên
tắc, thiệt hại bao nhiêu bồi thường bấy nhiêu. Thiệt hại ở đây là giả trị tổn
thất thực tế và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng. Thực
tế thì chứng minh giá trị tổn thất thực tế có thể dễ dàng thực hiện được, còn
chứng minh khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không
có hành vi vi phạm không phải là chuyện dễ dàng.
Về nghĩa vụ chứng minh tổn thất khi yêu cầu
bồi thường thiệt hại, LTM 2005 có quy định, “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại
phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”[19].
Một điểm cần lưu ý là theo BLDS 2005,
“Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ
không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”[20]. Điều
này cũng được quy định tương tự tại khoản 2, điều 294 LTM 2005.
Về các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, các trường hợp này về cơ bản là giống nhau mặc dù
cách diễn đạt có phần khác nhau trong LTM 2005 và BLDS 2005. LTM 2005 quy định
“Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: Xảy
ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận; Xảy ra sự kiện bất khả
kháng; Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; Hành vi vi phạm
của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng”[21].
Còn BLDS 2005 thì nói “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được
nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự,
trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Bên có nghĩa
vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực
hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”[22].
BLDS 2005 có định nghĩa về sự kiện bất khả kháng “là sự kiện xảy ra một cách
khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”[23].
Như vậy, trường hợp “Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm
giao kết hợp đồng” trong LTM 2005 cũng có thể được xem như là một sự kiện bất
khả kháng. Còn trong trường hợp các bên thoả thuận thêm các trường hợp miễn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại dù là trong hợp đồng dân sự hay thương mại thì
đều được pháp luật bảo vệ.
3.3.
Mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm
và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Có sự khác
nhau trong quy định về mối quan hệ này giữa LTM 2005 và BLDS 2005. Cụ thể, LTM
2005 quy định “Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị
vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có
quy định khác. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm
có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường
hợp Luật này có quy định khác”[24].
Còn BLDS 2005 quy định mối quan hệ này như sau “Các bên có thể thoả thuận về việc
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường
thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu
không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn
bộ thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt
hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”[25]. Như
vậy, nếu là hợp đồng dân sự thì trong trường hợp 2 bên có thoả thuận về phạt vi
phạm nhưng không thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm chỉ phải nộp
tiền phạt. Đây là lưu ý cực kỳ quan trọng cho các bên khi giao kết hợp đồng dân
sự. Còn với hợp đồng thương mại, nếu các bên không thoả thuận về bồi thường thiệt
hại và phạt hợp đồng hoặc các bên chỉ thoả thuận về phạt vi phạm mà không thoả
thuận về bồi thường thiệt hại thì vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho bên vi phạm. Bản thân tác giả ủng hộ quy định của LTM 2005 hơn là BLDS 2005
vì: Phạt vi phạm mang ý nghĩa “răn đe” các bên tuân thủ đúng hợp đồng, chứ
không mang nghĩa bù đắp tổn thất do việc vi phạm hợp đồng gây ra. Do đó, hợp lý
hơn là dù có thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thoả thuận về bồi thường
thiệt hại thì vẫn phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
4 4. Kết
luận
Các quy phạm
pháp luật trong LTM 2005 và BLDS 2005 đã tồn tại được hơn 10 năm, trong đó đã
có những quy định lỗi thời và mâu thuẫn lẫn nhau, nổi bật là các quy định về phạt
vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng như đã phân tích ở trên. Sắp
tới, Quốc hội chuẩn bị sửa đổi, thay thế các văn bản pháp luật này. Hi vọng các
hạn chế trong những quy định về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng sẽ được cải thiện. Trong thời gian chờ đợi điều đó, các chủ thể khi tham
gia vào các hợp đồng dân sự, thương mại cần chú trọng hơn vào hợp đồng của
mình, vì đó được xem là “luật” của đôi bên. Các thoả thuận cụ thể, rõ ràng sẽ
giúp các bên hạn chế được rủi ro cho mình khi tham gia vào các hợp đồng dân sự,
thương mại. Bài phân tích tập trung vào phân tích các quy định về phạt vi phạm,
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, sự khác nhau và mối quan hệ của 2 vấn đề này
hi vọng sẽ giúp các chủ thể khi tham gia vào hợp đồng dân sự, thương mại hiểu
rõ và quy định tốt hơn trong các hợp đồng của mình, từ đó thúc đẩy giao lưu
kinh tế, hợp tác giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
[1] Điều 388 BLDS 2005.
[2] Khoản 1, điều 3, LTM 2005.
[3] Trích khoản 1, điều 3, LTM 2005.
[4] Khoản 1, điều 422, BLDS 2005.
[5] Điều 300 LTM 2005.
[6] Khoản 1, điều 302 LTM 2005.
[7] Khoản 12, điều 3, LTM 2005.
[8] Khoản 13, điều 3, LTM 2005.
[9] Điều 300, LTM 2005.
[10] Khoản 1, điều 422 BLDS 2005.
[11] Điều 301, LTM 2005.
[12] Khoản 2, điều 422 BLDS 2005.
[13] Khoản 2, điều 302 BLDS 2005.
[14] Điều 307 BLDS 2005.
[16] Khoản 1, điều 302 LTM 2005.
[17] Điều 303 LTM 2005.
[18] Khoản 2, điều 302 LTM 2005.
[19] Điều 304 LTM 2005.
[20] Khoản 3, điều 302 BLDS 2005.
[21] Khoản 1, điều 294 LTM 2005.
[22] Khoản 2, 3 điều 302 BLDS 2005.
[23] Khoản 1, điều 161 BLDS 2005.
[24] Điều 307 LTM 2005.
[25] Khoản 3, điều 422 BLDS 2005.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét