Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015

PHÂN TÍCH VỀ PHẠT VI PHẠM VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG

PHÂN TÍCH VỀ PHẠT VI PHẠM VÀ 
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG

1             1. Đặt vấn đề
  Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là hai chế tài khá phổ biến trên thực tế hiện nay. Đây là hai chế tài khác nhau, được quy định trong khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, nổi bật nhất là BLDS 2005 và Luật Thương mại 2005. Hai văn bản quy phạm pháp luật này cũng có những quy định không giống nhau về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Về nguyên tắc, chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự sẽ thuộc sự điều chỉnh của BLDS 2005, trong hợp đồng thương mại sẽ thuộc sự điều chỉnh của LTM 2005. Do đó, bài viết này sẽ tập trung phân tích chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sư và hợp đồng thương mại. Qua đó, hiểu rõ hơn về sự khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng; sự khác nhau trong các quy định của BLDS 2005 và Luật thương mại 2005 về vấn đề này.

2      2. Lý luận chung
2.1.            Phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại
 “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”[1]. Trong khi đó, không có khái niệm “hợp đồng thương mại” trong pháp luật thương mại. Vì thế, ta có thể lấy định nghĩa từ luật dân sự để định nghĩa “hợp đồng thương mại” vì BLDS 2005 được coi là một bộ luật chung, bao quát cả những quan hệ về thương mại. Do đó, có những quan hệ trong hoạt động thương mại giữa các các bên mà không được quy định trong LTM 2005 thì áp dụng quy định của BLDS 2005. “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”[2]. Như vậy, có thể hiểu “Hợp đồng thương mại là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. “Các bên” ở đây phải đáp ứng được về đối tượng áp dụng theo điều 2, LTM 2005.
  Hai sự khác nhau cơ bản giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại:
-         Về chủ thể: Với hợp đồng thương mại, bắt buộc chủ thể phải thoả mãn điều 2, LTM 2005, về cơ bản, đó là các thương nhân. Còn chủ thể của hợp đồng dân sự rộng hơn rất nhiều, là các cá nhân, tổ chức (có thể có hoặc không có tư cách pháp nhân). Một điểm cần lưu ý là nếu các thương nhân giao kết hợp đồng nhưng đó không phải là hợp đồng có liên quan tới các hoạt động nằm trong phạm vi điều chỉnh của điều 1, LTM 2005 thì hợp đồng đó sẽ được xem là hợp đồng dân sự. Vi dụ: A và B là thương nhân. Nhà B nuôi một con mèo rất đẹp. A giao kết hợp đồng mua con mèo từ nhà B về nuôi thì đó là hợp đồng dân sự chứ không phải là hợp đồng thương mại.
-         Về mục đích của hợp đồng: Mục đích của hợp đồng thương mại là sinh lợi vì “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi”[3]. Trong khi đó, mục đích của hợp đồng dân sự thường là tiêu dùng.
2.2.            Định nghĩa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
 BLDS 2005 quy định “Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”[4]. LTM 2005 quy định “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này”[5]. Như vậy, định nghĩa về phạt vi phạm của cả 2 luật là giống nhau, đều chỉ một khoản tiền mà bên vi phạm nghĩa vụ trả cho bên kia nếu cả 2 bên có thoả thuận điều này.
 BLDS 2005 không có định nghĩa về bồi thường thiệt hại. LTM 2005 thì định nghĩa “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”[6]. Vận dụng các quy định có liên quan trong BLDS 2005 thì khái niệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại của LTM 2005 cũng tương tự như bồi thường thiệt hại cho các hợp đồng dân sự, đều chỉ nghĩa vụ phải bù đắp những tổn thất do việc vi phạm hợp đồng gây ra.
2.3.           Sự khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
 Về mặt khái niệm, phạt vi phạm chỉ một khoản tiền mà bên vi phạm nghĩa vụ phải trả cho bên kia. Như vậy, khoản tiền này không liên quan gì đến tổn thất mà bên kia phải chịu. Còn bồi thường thiệt hại chỉ việc bồi đắp những tổn thất mà bên vi phạm nghĩa vụ phải làm. Như vậy, về nguyên tắc, phải có thiệt hại mới phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Còn với phạt vi phạm, không có thiệt hại thì vẫn phát sinh nghĩa vụ trả tiền.
  Về mặt mục đích, phạt vi phạm được đặt ra để răn đe bên kia cố gắng tuân thủ hợp đồng. Còn bồi thường thiệt hại nhằm bù đắp tổn thất mà bên bị vi phạm phải chịu.
 Về căn cứ xác định trách nhiệm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh khi hội tụ đủ 4 yếu tố sau: có hành vi vi phạm hợp đồng, lỗi, có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Tất nhiên là vẫn có ngoại lệ nếu các bên thoả thuận khác. Trách nhiệm phạt vi phạm phát sinh chỉ cần 2 yếu tố: có hành vi vi phạm hợp đồng và lỗi. Thực tế, đôi khi một bên có lỗi và hành vi vi phạm hợp đồng nhưng không có thiệt hại xảy ra. Lúc này sẽ không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, còn trách nhiệm trả tiền phạt vi phạm sẽ phát sinh nếu 2 bên có thoả thuận về điều này. Cần lưu ý là chỉ khi có thoả thuận về phạt vi phạm thì mới phát sinh trách nhiệm phạt vi phạm. Còn với trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì dù trong hợp đồng, 2 bên không thoả thuận về điều này thì khi hội tụ đủ 4 yếu tố trên thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn xảy ra. Tất nhiên là pháp luật vẫn dành cho các bên được quyền thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (sẽ được phân tích ở phần sau).
2.4.            Thế nào là vi phạm hợp đồng?
 Về nguyên tắc, chỉ khi vi phạm hợp đồng mới xuất hiện trách nhiệm phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do đó, xác định thế nào là vi phạm hợp đồng là cực kỳ quan trọng.
 LTM 2005 quy định “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”[7]. Về mặt lý luận, vi phạm hợp đồng dẫn đến phát sinh nghĩa vụ trả tiền phạt vi phạm phải là vi phạm cơ bản, tức là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”[8]. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, hiện nay chưa có quy định nào bắt buộc phải là vi phạm cơ bản thì mới phát sinh trách nhiệm phạt vi phạm. Do đó, bên bị vi phạm hoàn toàn có quyền yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt vi phạm cho dù đó không phải là vi phạm cơ bản. Quan điểm của tác giả là ùng hộ việc phạt vi phạm chỉ khi đó là vi phạm cơ bản. Vì khi một vi phạm mà không ảnh hưởng tới mục đích của việc giao kết hợp đồng, không có thiệt hại thì theo nguyên tắc thiện chí, hợp tác của BLDS 2005, các bên nên tiếp tục cùng nhau thực hiện hợp đồng thay vì “chăm chăm” tìm cách phạt tiền lẫn nhau, ảnh hưởng tới sự bền vũng trong quan hệ của 2 bên.

3         3.  Phân tích phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự và thương mại
3.1.           Phân tích phạt vi phạm trong hợp đồng dân sự và thương mại
 Về khái niệm, như đã phân tích ở mục 2.2, có sự thống nhất với nhau trong cách định nghĩa về phạt vi phạm của BLDS 2005 và LTM 2005. Như vậy, chủ thể có quyền đòi tiền phạt vi phạm là bên bị vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng, chủ thể có trách nhiệm trả tiền phạt vi phạm là bên vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng, khách thể trong quan hệ này là một khoản tiền, gọi là tiền phạt.
 Về thoả thuận phạt vi phạm, LTM 2005 quy định “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận”[9]. BLDS 2005 quy định “Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng… “[10]. Như vậy, thoả thuận phạt vi phạm là thoả thuận phải có trong hợp đồng ban đầu. Nếu các bên sau khi giao kết mới có thoả thuận phạt vi phạm thì thoả thuận phạt vi phạm đó không phù hợp theo quy định này, hoàn toàn có thể bị Toà án tuyên vô hiệu nếu có tranh chấp. Do đó, một cách khắc phục cho vấn đề này là nếu các bên sau khi giao kết hợp đồng mới có thoả thuận phạt vi phạm thì thoả thuận đó cần được quy định trong phụ lục hợp đồng (là một bộ phận của hợp đồng ban đầu), khi đó sẽ phù hợp với quy định này. Bản thân tác giả không đồng ý với quy định này của LTM 2005 và BLDS 2005 vì: Cho dù thoả thuận phạt vi phạm xuất hiện trước hay sau hợp đồng ban đầu thì nó đều có giá trị, vì nó là sự thoả thuận của cả hai bên. Hai bên có quyền thoả thuận một điều khoản ngoài hợp đồng chứ không nhất thiết phải đưa nó vào trong hợp đồng. Quy định này vô tình làm hạn chế đi sự tự do thoả thuận của 2 bên trong quan hệ này.
Về mức phạt vi phạm, có sự khác nhau trong quy định của BLDS 2005 và LTM 2005. LTM 2005 quy định “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm…”[11]. BLDS 2005 quy định “Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”[12]. Như vậy khi nào áp dụng mức phạt không quá 8% theo LTM 2005, khi nào tự do thoả thuận mức phạt theo BLDS 2005? Về mặt lý luận, BLDS 2005 được xem là luật chung, LTM 2005 được xem là luật chuyên ngành. Do đó, ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành với các quan hệ chuyên ngành. Như đã phân tích tại mục 2.1, về nguyên tắc, với hợp đồng dân sự, 2 bên sẽ tự do thoả thuận mức phạt, với hợp đồng thương mại, 2 bên tự do thoả thuận theo mức phạt trần là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (cần lưu ý là 8% của giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm chứ không phải là 8% giá trị hợp đồng, mà xác định giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm trên thực tế là một việc cực kỳ khó khăn). Một vấn đề khá phổ biến hiện nay là nếu thoả thuận mức phạt trên 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì sao? Thoả thuận này sẽ bị tuyên vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật hay bị điều chỉnh về lại 8%? Hiện nay, không có một quy phạm pháp luật nào điều chỉnh vấn đề này, các Toà án khi giải quyết các tranh chấp này cũng thường đưa mức phạt về lại <= 8%. Do đó, kiến nghị pháp luật cần quy định cụ thể hơn về vấn đề này. Còn bản thân tác giả ủng hộ cách làm của Toà án khi đưa mức phạt về <=8% vì: đây là thoả thuận của 2 bên, 2 bên mong muốn có chế tài phạt vi phạm, do đó cần tôn trọng thoả thuận của 2 bên. Pháp luật lúc này chỉ giới hạn để tránh bên vi phạm bị thiệt hại quá nhiều cho việc phạt vi phạm, đó cũng là điều hợp lý. Thực tế các chuyên gia cũng tranh cãi mức 8% có phải là quá thấp hay không thì quan điểm tác giả mức 8% là hợp lý, vì đây chỉ là biện pháp “răn đe” các bên không vi phạm nghĩa vụ, nếu có thiệt hại thì bên bị thiệt hại đã được bồi thường thiệt hại rồi,do đó không thể “mong chờ” mức phạt hợp đồng cao, vì như vậy sẽ ảnh hưởng lớn tới “kinh tế” của người vi phạm, trong nhiều trường hợp, bản thân người vi phạm cũng không hề mong muốn chuyện đó xảy ra. Tuy nhiên, cần lưu ý là mức phạt trần 8% này chỉ áp dụng cho hợp đồng thương mại, với hợp đồng dân sự, các bên được tự do thoả thuận mức phạt.
 Về miễn trách nhiệm bị phạt vi phạm, nếu vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng dân sự nhưng  rơi vào trường hợp bất khả kháng theo khoản 2, điều 302 BLDS 2005 hay nếu vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thương mại nhưng rơi vào các trường hợp miễn trách nhiệm tại điều 294 LTM 2005 thì bên vi phạm đều được miễn trách nhiệm bị phạt vi phạm. Tuy nhiên, BLDS 2005 có quy định “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”[13] , điều này có nghĩa rằng nếu có thoả thuận rằng rơi vào trường hợp bất khả kháng, vẫn bị phạt vi phạm thì khi bên vi phạm rơi vào trường hợp bất khả kháng vẫn phải bị phạt vi phạm, do pháp luật dành sự ưu tiên cho thoả thuận. Do đó, khi giao kết hợp đồng, các bên phải đặc biệt chú ý về vấn đề này.
3.2.            Phân tích bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự và thương mại
 Về khái niệm, BLDS 2005 không định nghĩa thế nào là bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Tuy nhiên, BLDS 2005 có nói đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại”[14]. Như vậy, tạm hiểu “trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dân sự là là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra”[15]. Còn với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại thì tại LTM 2005 có quy định “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”[16]. Cơ bản thì khái niệm từ góc độ luật dân sự và khái niệm do LTM 2005 quy định không có gì khác nhau.
 Về cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, LTM 2005 có quy định, “…trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: Có hành vi vi phạm hợp đồng; Có thiệt hại thực tế; Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”[17]. Như vậy, lỗi không được đặt ra khi xét đến việc phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng dân sự thì về nguyên tắc, phải có đủ 4 yếu tố thì mới phát sinh nghĩa vụ: có hành vi vi phạm hợp đồng, lỗi, có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, do hợp đồng là 2 bên thoả thuận, nên trong trường hợp 2 bên thoả thuận không có lỗi vẫn phải bồi thường thiệt hại thì pháp luật vẫn tôn trọng sự thoả thuận của 2 bên trong vấn đề này.
 Về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, chỉ có bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mới phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu thiệt hại là do bên thứ 3 gây ra thì lúc đó sẽ phát sinh thêm quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do đó, các bên không thể quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên thứ 3 trong hợp đồng nếu không được sự đồng ý của họ.
 Về mức bồi thường thiệt hại, do pháp luật dân sự ưu tiên thoả thuận nên về nguyên tắc sẽ theo hợp đồng của 2 bên, cụ thể, các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường bằng, thấp hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận. Quy tắc này cũng được áp dụng cho các hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu các bên không thoả thuận thì sẽ giải quyết ra sao? Theo LTM 2005 thì “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”[18]. Như vậy, nếu các bên không thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại thì về nguyên tắc, thiệt hại bao nhiêu bồi thường bấy nhiêu. Thiệt hại ở đây là giả trị tổn thất thực tế và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng. Thực tế thì chứng minh giá trị tổn thất thực tế có thể dễ dàng thực hiện được, còn chứng minh khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm không phải là chuyện dễ dàng.
 Về nghĩa vụ chứng minh tổn thất khi yêu cầu bồi thường thiệt hại, LTM 2005 có quy định, “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”[19]. Một điểm cần lưu ý là  theo BLDS 2005, “Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”[20]. Điều này cũng được quy định tương tự tại khoản 2, điều 294 LTM 2005.
 Về các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các trường hợp này về cơ bản là giống nhau mặc dù cách diễn đạt có phần khác nhau trong LTM 2005 và BLDS 2005. LTM 2005 quy định “Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận; Xảy ra sự kiện bất khả kháng; Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng”[21]. Còn BLDS 2005 thì nói “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”[22]. BLDS 2005 có định nghĩa về sự kiện bất khả kháng “là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”[23]. Như vậy, trường hợp “Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng” trong LTM 2005 cũng có thể được xem như là một sự kiện bất khả kháng. Còn trong trường hợp các bên thoả thuận thêm các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại dù là trong hợp đồng dân sự hay thương mại thì đều được pháp luật bảo vệ.
3.3.           Mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
 Có sự khác nhau trong quy định về mối quan hệ này giữa LTM 2005 và BLDS 2005. Cụ thể, LTM 2005 quy định “Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”[24]. Còn BLDS 2005 quy định mối quan hệ này như sau “Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”[25]. Như vậy, nếu là hợp đồng dân sự thì trong trường hợp 2 bên có thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt. Đây là lưu ý cực kỳ quan trọng cho các bên khi giao kết hợp đồng dân sự. Còn với hợp đồng thương mại, nếu các bên không thoả thuận về bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng hoặc các bên chỉ thoả thuận về phạt vi phạm mà không thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên vi phạm. Bản thân tác giả ủng hộ quy định của LTM 2005 hơn là BLDS 2005 vì: Phạt vi phạm mang ý nghĩa “răn đe” các bên tuân thủ đúng hợp đồng, chứ không mang nghĩa bù đắp tổn thất do việc vi phạm hợp đồng gây ra. Do đó, hợp lý hơn là dù có thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì vẫn phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

4      4. Kết luận
 Các quy phạm pháp luật trong LTM 2005 và BLDS 2005 đã tồn tại được hơn 10 năm, trong đó đã có những quy định lỗi thời và mâu thuẫn lẫn nhau, nổi bật là các quy định về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng như đã phân tích ở trên. Sắp tới, Quốc hội chuẩn bị sửa đổi, thay thế các văn bản pháp luật này. Hi vọng các hạn chế trong những quy định về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng sẽ được cải thiện. Trong thời gian chờ đợi điều đó, các chủ thể khi tham gia vào các hợp đồng dân sự, thương mại cần chú trọng hơn vào hợp đồng của mình, vì đó được xem là “luật” của đôi bên. Các thoả thuận cụ thể, rõ ràng sẽ giúp các bên hạn chế được rủi ro cho mình khi tham gia vào các hợp đồng dân sự, thương mại. Bài phân tích tập trung vào phân tích các quy định về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, sự khác nhau và mối quan hệ của 2 vấn đề này hi vọng sẽ giúp các chủ thể khi tham gia vào hợp đồng dân sự, thương mại hiểu rõ và quy định tốt hơn trong các hợp đồng của mình, từ đó thúc đẩy giao lưu kinh tế, hợp tác giữa các chủ thể trong nền kinh tế.





[1] Điều 388 BLDS 2005.
[2] Khoản 1, điều 3, LTM 2005.
[3] Trích khoản 1, điều 3, LTM 2005.
[4] Khoản 1, điều 422, BLDS 2005.
[5] Điều 300 LTM 2005.
[6] Khoản 1, điều 302 LTM 2005.
[7] Khoản 12, điều 3, LTM 2005.
[8] Khoản 13, điều 3, LTM 2005.
[9] Điều 300, LTM 2005.
[10] Khoản 1, điều 422 BLDS 2005.
[11] Điều 301, LTM 2005.
[12] Khoản 2, điều 422 BLDS 2005.
[13] Khoản 2, điều 302 BLDS 2005.
[14] Điều 307 BLDS 2005.
[16] Khoản 1, điều 302 LTM 2005.
[17] Điều 303 LTM 2005.
[18] Khoản 2, điều 302 LTM 2005.
[19] Điều 304 LTM 2005.
[20] Khoản 3, điều 302 BLDS 2005.
[21] Khoản 1, điều 294 LTM 2005.
[22] Khoản 2, 3 điều 302 BLDS 2005.
[23] Khoản 1, điều 161 BLDS 2005.
[24] Điều 307 LTM 2005.
[25] Khoản 3, điều 422 BLDS 2005.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét