Bùi Đại Huynh - B.L and B.B.A

Tác giả của Blog này.

Mr. Huynh

Chuyên nghiên cứu pháp luật về chứng khoán, ngân hàng, đầu tư, doanh nghiệp.

Tác giả cùng bạn bè tại Đại học Luật TPHCM

Các nam cử nhân tại lớp QTL35 ĐH Luật TPHCM - tháng 7/2015.

Tác giả tại ĐH Luật TPHCM

Sáng tri thức - Vững công minh.

Khát vọng làm giàu

Ước mơ có thật nhiều tiền không bao giờ là xấu, cái xấu là có nhiều tiền bằng các hành vi vi phạm pháp luật.

Hiển thị các bài đăng có nhãn luật chứng khoán - Phân tích và bình luận. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn luật chứng khoán - Phân tích và bình luận. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

Bình luận các quy định trong Quy chế ban hành theo Quyết định 637/UBCK năm 2011 về chứng khoán được phép mua ký quỹ

Bình luận các quy định trong Quy chế ban hành theo Quyết định 637/UBCK năm 2011 về chứng khoán được phép mua ký quỹ

1. Đặt vấn đề
  Không phải chứng khoán nào cũng được phép mua ký quỹ. Muốn "lọt" vào danh sách mua ký quỹ của công ty chứng khoán, chứng khoán niêm yết phải trải qua 3 vòng, vòng một từ các quy định của UBCKNN, vòng hai từ Sở giao dịch chứng khoán và vòng ba từ các công ty chứng khoán. UBCKNN nêu ra các điều kiện chung để "loại" những chứng khoán không đủ tiêu chuẩn ra khỏi danh sách chứng khoán có thể mua ký quỹ. Trên cơ sở đó, Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh công bố danh sách chứng khoán không được phép giao dịch ký quỹ trên HOSE và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội công bố danh sách chứng khoán không được phép giao dịch ký quỹ trên sàn HNX. Từ đó, các công ty chứng khoán lựa chọn danh sách chứng khoán được phép mua ký quỹ phù hợp với mình.

2. Bình luận
 Chỉ có cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung, là sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) mới nằm trong danh mục ký quỹ. Đồng thời, UBCKNN đặt ra các điều kiện để loại các chứng khoán ra khỏi danh mục có thể ký quỹ trong Điều 10 của Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011 là hợp lý vì nó đảm bảo sự an toàn cho các nhà đầu tư, công ty chứng khoán, tổ chức phát hành và cả TTCK:
 Thứ nhất, “Có thời gian niêm yết dưới 06 tháng tính đến thời điểm công bố danh sách; trường hợp cổ phiếu chuyển sàn niêm yết thì thời gian niêm yết được tính là tổng thời gian niêm yết ở cả hai Sở Giao dịch chứng khoán”[1]. Quy định thời gian tối thiểu niêm yết để đảm bảo cổ phiếu đó đã được thị trường nhận diện, theo dõi. Các chủ thể tham gia, quản lý thị trường đã có những hiểu biết nhất định về cổ phiếu đó, qua đó giúp khách hàng đầu tư hợp lý hơn, các công ty chứng khoán và cơ quan Nhà nước quản lý tốt hơn.
 Thứ hai, “Bị đặt trong tình trạng bị tạm ngừng giao dịch, bị đưa vào diện cảnh báo, bị hủy niêm yết, bị đưa vào diện kiểm soát”[2]. Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ của các tổ chức phát hành đang có vấn đề trong hoạt động của mình dẫn đến bị tạm ngừng giao dịch, cảnh báo,…thì không được phép mua ký quỹ. Đây là quy định hợp lý để đảm bảo cho quyền lợi nhà đầu tư và thị trường. Một cổ phiếu đã rơi vào tình trạng như vậy thường do kinh doanh kém, gặp các vấn đề về tài chính và quản trị, do đó không thể hi vọng gì vào việc trong ngắn hạn nó sẽ tăng giá. Mà mục đích của mua ký quỹ là mong muốn nó tăng giá. Tương tự như vậy là trường hợp “Kết quả kinh doanh của tổ chức niêm yết chứng khoán là có lỗ căn cứ trên báo cáo tài chính gần nhất đã kiểm toán hoặc có ý kiến soát xét của tổ chức kiểm toán (tùy trường hợp nào gần nhất thời điểm xem xét); Trường hợp tổ chức niêm yết là quỹ đầu tư đại chúng, có tối thiểu một tháng có giá trị tài sản ròng (NAV) tính trên một đơn vị chứng chỉ quỹ nhỏ hơn mệnh giá căn cứ trên báo cáo thay đổi giá trị tài sản ròng hàng tháng xét trong 03 tháng liên tiếp tính đến thời điểm được lựa chọn để giao dịch ký quỹ”[3].
     Ngoài ra, còn có một số hạn chế mua ký quỹ đối với một số trường hợp sau:
 Thứ nhất, hạn chế dòng tiền mua ký quỹ đi vào các cổ phiếu liên quan tới công ty chứng khoán mà khách hàng mở tài khoản bằng việc không cho phép mua ký quỹ trong trường hợp: “Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư do chính công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành trong vòng sáu (06) tháng tính từ khi hoàn tất đợt phát hành”[4], “cổ phiếu của công ty niêm yết sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán và đối với cổ phiếu của công ty niêm yết do công ty chứng khoán sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ”[5], “cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành”[6]. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư trên TTCK. Rõ ràng, sẽ là không công bằng nếu công ty chứng khoán dùng vốn của mình cho các nhà đầu tư mua lại các cổ phiếu, chứng chỉ quỹ liên quan tới quyền lợi của mình. Ví dụ, nếu cho phép khách hàng mua ký quỹ cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành thì chẳng khác nào cho khách hàng dùng tiền của mình mua lại cổ phiếu của chính mình, qua đó làm tăng giá bất hợp lý cổ phiếu của mình, ảnh hưởng xấu tới thị trường. Đồng thời, khi tài khoản giao dịch ký quỹ đó rơi vào tình trạng phải bán giải chấp thì công ty chứng khoán lại phải bán giải chấp cổ phiếu của chính mình phát hành. Ngoài ra, các công ty chứng khoán chắc chắn biết rõ tình hình kinh doanh của mình. Khi đó, vì lợi nhuận hoặc một mục đích nào đó, công ty chứng khoán sẽ phát hành các báo cáo, phân tích khuyến khích khách hàng mua cổ phiếu của chính mình, cho dù tình hình kinh doanh của mình không tốt. Điều đó sẽ ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của khách hàng. Thực tế, các công ty chứng khoán đang làm không tốt việc này. Trong danh mục cổ phiếu được phép mua ký quỹ cập nhật tại website cafef.vn[7], SSI cho khách hàng mua ký quỹ cổ phiếu SSI, tương tự là FPTS với cổ phiếu FPT, công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam (CTS) với cổ phiếu CTG[8], công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BSI) với cổ phiếu BID[9],…Vấn đề này xuất phát từ áp lực về lợi nhuận của các công ty chứng khoán, các cổ phiếu SSI, FPT, CTG, BID,… là các cổ phiếu rất được quan tâm trên TTCK, thanh khoản cao, cho phép khách hàng mua ký quỹ là đem lại doanh thu mua ký quỹ và phí giao dịch lớn cho các công ty chứng khoán, từ đó tăng lợi nhuận cho họ. Các hoạt động này đã diễn ra từ rất lâu và vẫn chưa thấy bất kỳ công ty chứng khoán nào bị phạt. Điều này tạo ra sự bất công bằng với các công ty chứng khoán khác và đôi khi ảnh hưởng tới quyền lợi của nhà đầu tư. Chế tài xử phạt đã có, “Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với công ty chứng khoán vi phạm quy định về giao dịch ký quỹ chứng khoán”[10], do đó rất cần UBCKNN kiểm tra và xử phạt với các trường hợp này để đem lại sự lành mạnh cho TTCK.
 Thứ hai, “khi khách hàng không bảo đảm tỷ lệ ký quỹ theo quy định tại Hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ và các quy định tại Quy chế này”[11]. Quy định này nhằm tránh rủi ro cho công ty chứng khoán. Vì nếu khách hàng mua ký quỹ mà không đảm bảo tỷ lệ ký quỹ sẽ gây rủi ro cho các công ty chứng khoán trong việc thu hồi lại khoản vay. Cũng giống như các ngân hàng làm mọi cách để hạn chế nợ xấu thì đây cũng là một cách để công ty chứng khoán phòng chống nợ xấu cho mình.

3. Kết luận.
 Các quy định hiện nay của UBCKNN là tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tế việc áp dụng các quy định trên của các chủ thể tham gia TTCK, thậm chí cả việc áp dụng các quy định do chính mình ban hành để quản lý TTCK của UBCKNN cũng chưa tốt. Do đó, cần thiết tất cả các chủ thể tham gia TTCK tuân thủ triệt để các quy định pháp luật nhằm đảm bảo sự vận hành minh bạch, công bằng của TTCK.




[1] Điều 10 khoản 1 Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[2] Điều 10 khoản 2 Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[3] Điều 10 khoản 3 Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[4] Điều 12 khoản 1 điểm a Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[5] Điều 12 khoản 1 điểm b Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[6] Điều 12 khoản 1 điểm c Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[7] Dữ liệu tại http://s.cafef.vn/margin/company.chn#data, truy cập ngày 14/07/2015.
[8] Mã cổ phiếu ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng này cũng là công ty mẹ của CTS.
[9] Mã cổ phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng này là công ty mẹ của BSI.
[10] Điều 21 khoản 3 điểm g 108/2013/NĐ-CP.
[11] Điều 12 khoản 1 điểm d Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.

Thứ Hai, 3 tháng 8, 2015

Bình luận về vụ tranh chấp giữa FPTS và khách hàng trong việc bán giải chấp ở tài khoản Margin

Bình luận về vụ tranh chấp giữa FPTS và khách hàng trong việc bán giải chấp ở tài khoản Margin


1. Vấn đề
    Xem thêm diễn biến tranh chấp này tại Anh Việt, “Thực hư việc nhà đầu tư tố cáo môi giới FPTS”, http://tinnhanhchungkhoan.vn/chung-khoan/thuc-hu-viec-nha-dau-tu-to-cao-moi-gioi-fpts-110166.html, truy cập ngày 14/07/2015.
    Tóm tắt vụ việc như sau: Khách hàng mở tài khoản giao dịch ký quỹ tại Công ty chứng khoán FPT (FPTS). Khách hàng được cấp hai tài khoản là tài khoản thường và tài khoản giao dịch ký quỹ. Khách hàng mua cổ phiếu PVB trên cả hai tài khoản. Giai đoạn đó, giá cổ phiếu PVB sụt giảm mạnh khiến tài khoản ký quỹ của nhà đầu tư rơi vào tình trạng hụt tiền ký quỹ, tức là vượt khỏi ngưỡng an toàn. Khách hàng quyết định bán cổ phiếu PVB trong tài khoản thường nên tài khoản thường đang có một lượng dư tiền mặt lớn, đủ đề bù đắp hụt tiền ký quỹ. Tuy nhiên, tài khoản ký quỹ của khách hàng thì lại đang sử dụng tối đa tiền vay để mua cổ phiếu PVB. Khi đó, FPTS đã thông báo tới khách hàng và quyết định bán giải chấp cổ phiếu PVB trong tài khoản giao dịch ký quỹ. Khách hàng phản đối vì cho rằng tiền trong tài khoản thường còn rất nhiều, đủ đề bù đắp thiếu hụt tiền ký quỹ trong tài khoản giao dịch ký quỹ, không đồng ý với việc bán giải chấp của FPTS.

2. Bình luận
  Thứ nhất, khách hàng và FPTS đã ký hợp đồng sử dụng dịch vụ giao dịch ký quỹ này, do đó trước hết cần theo dõi các điều khoản của hợp đồng có quy định về vấn đề này hay không[1]? Đọc hợp đồng mẫu của FPTS sẽ không thể tìm thấy thỏa thuận của hai bên về việc công ty chứng khoán có thể tự động chuyển đổi qua lại tiền và chứng khoán của hai tài khoản. Chỉ có nhà đầu tư mới được phép tự mình chuyển đổi tiền và chứng khoán qua lại giữa hai tài khoản.
  Thứ hai, tại điểm a, khoản 3, Điều 8 của Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011 thì một nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài khoản giao dịch ký quỹ là “Tài khoản giao dịch ký quỹ phải được quản lý tách biệt với tài khoản giao dịch thông thường”. Như vậy, hai tài khoản này độc lập với nhau.
 Do đó, trường hợp này công ty chứng khoá FPTS đã đúng khi bán giải chấp cổ phiếu khi tài khoản ký quỹ rơi vào tình trạng vượt ngưỡng an toàn. Khách hàng không thể viện dẫn lý do tài khoản thường còn tiền để buộc công ty chứng khoán phải trích tiền từ tài khoản thường sang tài khoản ký quỹ.
     Quy định như vậy của UBCKNN có hợp lý hay không? Theo tác giả, các công ty chứng khoán trong hoạt động quản lý giao dịch ký quỹ với khách hàng luôn là bên có nhiều lợi thế. Do đó, thiết nghĩ pháp luật nên quy định các công ty chứng khoán cần có nghĩa vụ hoạt động vì lợi ích của khách hàng. Trong tranh chấp trên, công ty chứng khoán hoàn toàn biết được tiền của khách hàng tại hai tài khoản là bao nhiêu, chứng khoán đang ở tình trạng nào. Do đó, sẽ là hợp lý hơn nếu như pháp luật cho phép công ty chứng khoán khấu trừ tiền trong tài khoản thường để bù trừ thiếu hụt tiền trong tài khoản giao dịch ký quỹ. Điều này sẽ giúp khách hàng bớt đi thủ tục chuyển tiền từ tài khoản thường sang tài khoản giao dịch ký quỹ hoặc phải nạp thêm tiền vào tài khoản giao dịch ký quỹ hoặc phải bán bớt cổ phiếu trong tài khoản giao dịch ký quỹ khi không muốn thực hiện chuyện đó. Quan trọng hơn là công ty chứng khoán cũng không thiệt hại gì từ việc này, đặc biệt là khi khách hàng không phải lúc nào cũng ở trong tình trạng có thể giải quyết việc thiếu hụt tiền trong tài khoản giao dịch ký quỹ nhanh chóng. Nếu khách hàng đang bận du lịch, ở nơi không có Internet, bận việc riêng,…dẫn đến không giải quyết chuyện hụt tiền trong tài khoản giao dịch ký quỹ, còn công ty chứng khoán không thông thoáng bù tiền qua lại 2 tài khoản sẽ dẫn đến thiệt hại lớn cho khách hàng. Thiết nghĩ, UBCKNN nên thay đổi quy định này để bảo vệ tốt hơn nữa quyền lợi cho nhà đầu tư. Cũng là vấn đề đó nhưng liên quan đến quyền lợi của công ty chứng khoán là nếu giá cổ phiếu mà khách hàng mua ký quỹ giảm mạnh, đồng thời thanh khoản kém thì công ty chứng khoán không thể bán giải chấp cổ phiếu đó được vì không ai mua. Vậy công ty chứng khoán có được chuyển tiền từ tài khoản thường của khách hàng để bù trừ thiếu hụt bên tài khoản giao dịch ký quỹ hay không? Theo pháp luật hiện hành thì điều này là không được và công ty chứng khoán phải gánh chịu rủi ro cho mình. Do đó, cần thiết để UBCKNN nên quy định thêm về vấn đề này.  

3. Kết luận
 Khi giá cổ phiếu lên giá, ai cũng "sung sướng", khi giá giảm ai cũng "buồn". Tệ hại hơn nữa là giá giảm mạnh đến mức phải bán giải chấp. Thiết nghĩ, pháp luật chứng khoán cần quy định cụ thể hơn về vấn đề này để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy nhà đầu tư khó có thể "kỳ kèo" sửa đổi các hợp đồng giao dịch ký quỹ mẫu với các công ty chứng khoán vì nhiều lý do như kiến thức có hạn, lợi thế của công ty chứng khoán, không lường trước vấn đề,...Vì vậy, chỉ có pháp luật mới có thể "giúp đỡ" các nhà đầu tư trong các vấn đề này.



[1]Xem thêm Hợp đồng giao dịch ký quỹ mẫu của FPTS tại https://eztrade.fpts.com.vn/upload/HopDongGiaoDichKyQuy pdf.

Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2015

Phân tích thuật ngữ mua ký quỹ trong giao dịch ký quỹ trên Thị trường chứng khoán

Phân tích thuật ngữ mua ký quỹ trong 
giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán


   1. Đặt vấn đề
   Giao dịch ký quỹ gồm mua ký quỹ và bán khống chứng khoán. Đây là hai hoạt động độc lập, có nội dung khác nhau nhưng đều là một phần của giao dịch ký quỹ. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép mua ký quỹ và cấm bán khống chứng khoán. Bài viết này tập trung làm rõ thuật ngữ mua ký quỹ theo các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành.

  2. Phân tích
  Có sự khác nhau trong định nghĩa về “mua ký quỹ” giữa Bộ tài chính (BTC) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (SGDCK HN). Cụ thể, “Giao dịch mua ký quỹ chứng khoán (margin) là giao dịch mua chứng khoán của khách hàng có sử dụng tiền vay của công ty chứng khoán và sử dụng các chứng khoán khác có trong tài khoản và chứng khoán mua được bằng tiền vay để cầm cố”[1] là cách định nghĩa của BTC. Còn SGDCK HN định nghĩa “Mua ký quỹ (margin purchase), người đầu tư chỉ cần có một phần tiền trong tổng giá trị số chứng khoán đặt mua, phần còn lại do công ty chứng khóan cho vay. Sau khi giao dịch được thực hiện, số chứng khoán đã mua của khách hàng được công ty chứng khoán giữ lại làm thế chấp cho khoản vay”[2].
     Hai điểm khác nhau cơ bản trong hai định nghĩa này:
 Thứ nhất, BTC dùng từ “margin”, còn SGDCK HN dùng từ “margin purchase” để nói về giao dịch mua ký quỹ chứng khoán. Theo tác giả, cách dùng từ của SGDCK HN là chính xác hơn. Giao dịch mua ký quỹ chứng khoán không đồng nghĩa với “margin”. “Margin” theo từ điển Lạc Việt Anh–Việt thì mang nghĩa là số dư. Ở đây, “margin account” thể hiện một tài khoản có số dư, số dư tiền hoặc chứng khoán. Giao dịch trên “margin account” (tài khoản giao dịch ký quỹ), hay còn gọi là “margin trading”, nói ngắn gọn lại là giao dịch ký quỹ. Việc nhà làm luật dùng dấu ngoặc đơn để nói rằng giao dịch mua ký quỹ chứng khoán là “margin” vô tình đã làm sai đi khái niệm “margin”. Có thể hiểu ý chí của BTC khi ban hành thông tư này là do chúng ta chưa cho phép bán khống nên “margin” cứ tạm hiểu là mua ký quỹ. Điều này sẽ dẫn đến một ngày khi chấp nhận bán khống, nhà làm luật sẽ lại phải sửa khái niệm về mua ký quỹ này. Rõ ràng, một văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành cần sự chính xác về từ ngữ, đồng thời nên dự trù cho những khả năng phát sinh trong tương lai.
 Thứ hai, chứng khoán mua về được cầm cố (theo cách viết của TT số 74/2011/TT-BTC) hay thế chấp (theo thuật ngữ mà SGDCK HN sử dụng)? Theo tác giả, cách dùng từ của BTC là đúng. Theo khoản 1, Điều 1 của Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”. Mà giấy tờ có giá thì đương nhiên là chỉ có thể được cầm cố chứ không thể thế chấp được. BLDS 2005 quy định “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”[3]. “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp”[4]. Như vậy, hiểu đơn giản là cầm cố thì chuyển giao tài sản cho bên kia, còn thế chấp thì không. Với các loại cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán hiện nay thì thường tồn tại dưới hình thức dữ liệu điện tử, mà tại đó, khi khách hàng dùng nó để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ với công ty chứng khoán thì công ty chứng khoán sẽ phong toả, quản lý chứng khoán ấy. Chứng khoán ấy nằm trong tài khoản của khách hàng, nhưng tài khoản của khách hàng thì được quản lý bởi công ty chứng khoán. Muốn bán các chứng khoán ấy, khách hàng phải thực hiện lệnh thông qua công ty chứng khoán. Do đó, có thể nói chứng khoán đã được chuyển giao cho công ty chứng khoán, nên dùng từ “cầm cố” là hợp lý. Tham khảo cách hiểu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tại điểm c, 2.1, mục I, Thông tư số 07/2003/TT-NHNN thì cổ phiếu là tài sản có thể cầm cố. Tham khảo Điều 338 Dự thảo sửa đổi BLDS 2005 của Bộ tư pháp cũng có nói đến “cầm cố chứng khoán”. Có thể thấy, các văn bản và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hiện nay đang khá nhất quán về câu chuyện cầm cố chứng khoán, chứ không phải thế chấp chứng khoán. Tuy nhiên trên thực tế, không chỉ SGDCK HN mà còn rất nhiều công ty chứng khoán, báo chí,…hay gặp phải lỗi sai này, hoặc là dùng từ “thế chấp cổ phiếu”, “bán giải chấp “ (là bán chứng khoán đang được thế chấp) hoặc là “cầm cố, thế chấp cổ phiếu”. Ngay cả quy chế về giao dịch ký quỹ do UBCKNN ban hành với Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011 cũng dùng từ “thế chấp” đối với chứng khoán trong chương 6, “Quy định về ký quỹ, thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế chấp”. Do đó, cần thống nhất rằng chứng khoán (ở đây đang nói đến cổ phiếu và chứng chỉ quỹ vì giao dịch ký quỹ chỉ áp dụng với hai loại chứng khoán này) là được cầm cố chứ không phải thế chấp.


   3. Kết luận 
   Các quy định của pháp luật luôn đòi hỏi sự chính xác về ngôn ngữ. Bài viết trên nhằm chỉ rõ cách sử dụng từ ngữ chưa chính xác về mua ký quỹ trong các văn bản pháp luật chứng khoán. Nội dung bài phân tích được trích dẫn từ Luận văn tốt nghiệp "Pháp luật về giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán" đạt điểm 9.5 của tác giả tại khoa Luật Thương mại, trường ĐH Luật TPHCM năm 2015.



[1] Điều 2, khoản 8 Thông tư 74/2011/TT-BTC.
[2] Mục 58 tại http://hnx.vn/web/guest/thuat-ngu, truy cập ngày 14/07/2015.
[3] Điều 326 Bộ luật dân sự.
[4] Điều 342 khoản 1 Bộ luật dân sự.

Tìm hiểu và phân biệt giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán với ký quỹ trong pháp luật dân sự


1. Đặt vấn đề
 Trên thực tế, cụm từ “ký quỹ” xuất hiện khá nhiều. Chúng ta thường nghe đến: tiền gửi ký quỹ tại các ngân hàng thương mại, tiền ký quỹ thuê nhà, tiền ký quỹ thực hiện hợp đồng,…Tất cả các loại ký quỹ này đều được hiểu là ký quỹ theo quy định của Bộ luật dân sự 2005. Ký quỹ là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự [1], cụ thể: “Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền được ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra, sau khi trừ chi phí dịch vụ ngân hàng. Thủ tục gửi và thanh toán do pháp luật về ngân hàng quy định”[2]. Ký quỹ trong giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán (TTCK) cũng mang ý nghĩa tương tự, thể hiện tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của nhà đầu tư với công ty chứng khoán. Tuy nhiên, giao dịch ký quỹ trên TTCK có những điểm khác biệt cơ bản với khái niệm ký quỹ trong pháp luật dân sự. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam hiện tại chỉ cho phép mua ký quỹ (hiểu là vay tiền của công ty chứng khoán để mua chứng khoán), không cho phép bán khống chứng khoán (hiểu là vay chứng khoán từ công ty chứng khoán để bán ra thị trường). Vì vậy, trong bài viết này, giao dịch ký quỹ được hiểu là mua ký quỹ.

2. Phân biệt
 Thứ nhất, về chủ thể, hợp đồng giao dịch ký quỹ chỉ có hai bên là công ty chứng khoán và nhà đầu tư, không có bất cứ bên liên quan nào. Còn ký quỹ theo Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 sẽ có 3 bên: người ký quỹ là bên có nghĩa vụ từ một hợp đồng chính, bên có quyền lợi từ hợp đồng chính, ngân hàng là nơi nhận tài sản ký quỹ. Hơn thế nữa, giao dịch ký quỹ bắt buộc phải được thực hiện trên tài khoản ký quỹ (margin account) được mở tại công ty chứng khoán và nhà đầu tư thực hiện giao dịch ký quỹ buộc phải vay tiền từ công ty chứng khoán để mua chứng khoán. 
 Thứ hai, về tài sản ký quỹ. Trong giao dịch ký quỹ trên TTCK, chỉ được ký quỹ tiền và chứng khoán. Còn ký quỹ theo BLDS 2005, ngoài tiền, có thể ký quỹ vàng, bạc, giấy tờ có giá,…
 Thứ ba, về giao dịch tài sản ký quỹ. Với ký quỹ trong pháp luật dân sự thì tài sản ký quỹ được gửi vào tài khoản ngân hàng và tài khoản ấy bị phong toả, như vậy không ai có thể tác động vào tài khoản ấy trong thời gian thực hiện nghĩa vụ từ hợp đồng chính. Với giao dịch ký quỹ trên TTCK, nhà đầu tư có thể lấy tiền ký quỹ ban đầu để mua chứng khoán, sau đó lấy chứng khoán đấy cầm cố vay tiền từ công ty chứng khoán để tiếp tục mua chứng khoán. Như vậy, tài sản ký quỹ chuyển hoá từ tiền thành chứng khoán. Và chứng khoán đã mua về lại có thể tiếp tục được bán đi. Đó là một chuỗi mua bán chứng khoán diễn ra liên tục trong giao dịch ký quỹ trên TTCK. Thực ra, cách dùng từ tài sản ký quỹ còn gây nhiều tranh cãi, theo tác giả, chính xác hơn phải gọi đó là tài sản cầm cố. Cụ thể, nếu nhà đầu tư có sẵn chứng khoán thì có thể cầm cố chứng khoán để vay tiền mua chứng khoán khác, nếu nhà đầu tư có tiền thì sẽ mua chứng khoán về, sau đó lại cầm cố chứng khoán đã mua đó để vay tiền mua chứng khoán khác.

3. Kết luận.
  Phân biệt giao dịch ký quỹ trên TTCK và ký quỹ trong pháp luật dân sự giúp các nhà đầu tư nhận thức rõ hơn hoạt động đầu tư của mình đang chịu sự điều chỉnh của pháp luật nào. Ngoài ra, bài viết giúp làm rõ khái niệm giao dịch ký quỹ với các giao dịch khác có nội dung gần giống với giao dịch ký quỹ, qua đó nhận thức sự khác biệt này để hiểu hơn các quy định có liên quan, tạo tiền đề cho các hoạt động đầu tư theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành.
  Nội dung bài phân tích được trích dẫn từ Luận văn tốt nghiệp "Pháp luật về giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán" đạt điểm 9.5 của tác giả tại khoa Luật Thương mại, trường ĐH Luật TPHCM năm 2015.



[1] Xem Điều 318 khoản 1 điểm đ Bộ luật dân sự.
[2] Điều 360 BLDS 2005.