Bùi Đại Huynh - B.L and B.B.A

Tác giả của Blog này.

Mr. Huynh

Chuyên nghiên cứu pháp luật về chứng khoán, ngân hàng, đầu tư, doanh nghiệp.

Tác giả cùng bạn bè tại Đại học Luật TPHCM

Các nam cử nhân tại lớp QTL35 ĐH Luật TPHCM - tháng 7/2015.

Tác giả tại ĐH Luật TPHCM

Sáng tri thức - Vững công minh.

Khát vọng làm giàu

Ước mơ có thật nhiều tiền không bao giờ là xấu, cái xấu là có nhiều tiền bằng các hành vi vi phạm pháp luật.

Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015

New Rules of Law on Enterprises (LE) 2014: Subsidiary companies are not permitted to invest by capital contribution to or shares purchase of the parent company; Subsidiary companies of the same parent company are not permitted to jointly contribute capital or purchase shares in order to have mutual cross ownership.

New Rules of Law on Enterprises (LE) 2014: Subsidiary companies are not permitted to invest by capital contribution to or shares purchase of the parent company; Subsidiary companies of the same parent company are not permitted to jointly contribute capital or purchase shares in order to have mutual cross ownership.




1.      The problem
There have been some inadequate and backward rules proved by some business activities problems in reality since the effective date of LE 2005. It leads to the changes of LE 2005 solving that problems. One of the noticeable changes of LE 2014 compared with LE 2005: Subsidiary companies are not permitted to invest by capital contribution to or shares purchase of the parent company; Subsidiary companies of the same parent company are not permitted to jointly contribute capital or purchase shares in order to have mutual cross ownership.

2.      Analysis
Late 2012, there was a severe debate over subsidiary companies’s investment by capital contribution to or share purchase of the parent company and capital contribution or shares purchase of subsidiary companies of the same parent company in order to have mutual cross ownership in Vietnam Securities Market (VSM). For examples, 09 Nov 2012, the Board of Management Masan Group J.S.C (MSN) decided: MSN and MSN’s 100% capital subsidiary companies would buy up to 25% outstanding shares of Masan Customer J.S.C (MSF); 05 Nov 2012, Kinh Do Binh Duong J.S.C (Kinh Do J.S.C – KDC owns 99.8% charter capital) registered to buy up to 8% outstanding KDC shares by order matching method or put through trading method. In the first 6 months of 2012, 3 subsidiary companies of Gilimex J.S.C (GIL – HOSE market) bought 2.7 million GIL shares. Under LE 2005, that behaviors are legal. That companies complied with a legal basic principle: “Everything which is not forbidden is allowed”. LE 2005 doesn’t prevent any subsidiary companies from investing by capital contribution to or shares purchase of the parent company; jointly contribute capital or purchase shares in order to have mutual cross ownership.
Relationship in corporate groups is regulated under Chapter 7 LE 2005 and Chapter 8 LE 2014. However, the rules as indicated as the title are only regulated under LE 2014. In details, subsidiary companies are not permitted to invest by capital contribution to or shares purchase of the parent company; Subsidiary companies of the same parent company are not permitted to jointly contribute capital or purchase shares in order to have mutual cross ownership. From the new rules and examples at above paragraph, I will notice something:
Firstly, from 01 July 2015 (the effective day of LE 2014), subsidiary companies are not permitted to invest by capital contribution to or shares purchase of the parent company; Subsidiary companies of the same parent company are not permitted to jointly contribute capital or purchase shares in order to have mutual cross ownership ( Clause 2, Article 189 LE 2014). However, new rules have not still solved a problem: What’s wrong with this behaviors before the effective date of LE 2014? We can not find any rules solving that.
Secondly, Why were there mutual tradings in corporate groups like KDC, MSN, GIL as indicated above? I can give some reasons:
1.      That behaviors didn’t violate relevant Vietnam Rules. At General Shareholders Meeting on 12 April 2014 of GIL J.S.C, a large GIL’s shareholder Sai Gon Securities Company (SSI) refered to State Security Commission (SSC) Documentary: A Parent Company’s share bought by a subsidiary company is considered as a treasury share. I think SSC’s idea is inappropriate and illegal. SSC don’t have the authority to explain contents of legal normative document. “Treasury share” is defined as “ a share was issued by a shareholding company and then, it bought this share itself” (Clause 1, Article 2, Decree No. 58/2012/NĐ-CP). Under this rule, a parent company’s share bought by a subsidiary company is not a treasury share. Besides, under LE 2005, a subsidiary company is a legal entity and shall have shareholding status when it buys parent company’s share.
2.      This behaviors might be related to leaders’s desire to keep power at public company against new big shareholders groups. For example, a group of leaders owns 40% shares and  a group of  new big shareholders owns 45% shares now. There will be a “war of power” between them for controlling the company. The present group of leaders don’t have enough funds to buy many shares, they will vote for establishing a subsidiary company. Next, they will assign somebody who have a good relationship with them to be leaders of the subsidiary company. The subsidiary company will purchase the parent company’s shares, such as 10% shares. The present group of leaders will be a winner in a “war of power” for the next election with 50% shares supporting them against 45% shares supporting a group of new big shareholders.
3.      Increasing the parent company’s shares by purchasing demands from subsidiary companies.
4.      Helping the insider shareholders to sell parent company’s shares with the high price by selling them to subsidiary companies.
5.      Helping the parent company not to comply with the strict rules about “treasury shares trading”.
Thirdly, with reasons as analyzed above, I think it’s appropriate to change the law about that behavior. LE 2014 forbade that behavior from 01 July 2015.

3.      Conclusion

The new rules in LE 2014 are appropriate. It has solved some problem existing in VSM recently. However, some Decrees, Circulars (ready to be issued) guiding LE 2014 need to be clearly written in orther to solve the problem as indicated above.  

Quy định mới từ Luật Doanh nghiệp 2014: Không cho phép công ty con góp vốn, mua cổ phần vào công ty mẹ; các công ty con góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau.

Quy định mới từ Luật Doanh nghiệp 2014: Không cho phép công ty con góp vốn, mua cổ phần vào công ty mẹ; các công ty con góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau.

         1.  Đặt vấn đề
 Thực tế tình hình đầu tư, kinh doanh từ khi Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực đến trước khi Luật doanh nghiệp 2014 có hiệu lực đã tồn tại những bất cập, sự lạc hậu dẫn đến sự cần thiết phải có những đối thay trong pháp luật doanh nghiệp để phù hợp với hoàn cảnh thực tại. Một trong những thay đổi đáng chú ý và hợp lý của Luật doanh nghiệp 2014 là việc các nhà làm luật cấm các công ty con không được đầu tư góp vốn, mua cổ phần của công ty mẹ. Các công ty con của cùng một công ty mẹ cũng không được cùng nhau góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau.

        2.  Phân tích
Cuối năm 2012, Thị trường chứng khoánViệt Nam nổi sóng câu chuyện quan hệ mua bán cổ phần giữa công ty con với công ty mẹ và giữa các công ty con với nhau. Nổi bật nhất là 09/11/2012, Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Tập đoàn Ma San (mã MSN-HOSE) đã quyết định, MSN và/hoặc các công ty con do công ty sở hữu 100% vốn sẽ mua tối đa 25% tổng số cổ phần đang lưu hành của Công ty Cổ phần hàng tiêu dùng Ma San (Masan Consumer-MSF); Ngày 5/11/2012, Công ty Cổ phần Kinh Đô Bình Dương, công ty con mà Công ty Cổ phần Kinh Đô (mã KDC-HOSE) sở hữu 99,8% vốn điều lệ đã đăng ký mua 8 triệu cổ phiếu KDC qua phương thức khớp lệnh và thỏa thuận;  Trong 6 tháng đầu năm 2012, cả 3 công ty con của Công ty Cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh-Gilimex (mã GIL-HOSE) đã thực hiện mua vào hơn 2,7 triệu cổ phiếu GIL. Nếu chiếu theo Luật doanh nghiệp 2005 thì các hoạt động trên hoàn toàn hợp pháp, vì Luật doanh nghiệp 2005 không cấm các công ty con góp vốn, mua cổ phần vào công ty mẹ; các công ty con góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau. Các doanh nghiệp được kể trên đều đang áp dụng một nguyên tắc cơ bản, doanh nghiệp được làm mọi chuyện mà pháp luật không cấm.
Quy định về quan hệ nhóm công ty được thể hiện tại chương 7, LDN 2005 và chương 8, LDN 2014. Tuy nhiên, quy định không cho phép công ty con góp vốn, mua cổ phần vào công ty mẹ; các công ty con góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau chỉ có tại LDN 2014, cụ thể:
Công ty con không được đầu tư góp vốn, mua cổ phần của công ty mẹ. Các công ty con của cùng một công ty mẹ không được cùng nhau góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau. (K2, Đ189 LDN 2014). Từ quy định mới này và các ví dụ trên, chúng ta có một số điểm lưu ý sau:
Thứ nhất, kể từ ngày 01/07/2015 (ngày có hiệu lực của LDN 2015), công ty con không được góp vốn, mua cổ phần vào công ty mẹ; các công ty con không được góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau. Tuy nhiên, một điểm còn gây nhiều thắc mắc là nếu các hoạt động này đã xảy ra rồi có bị bắt buộc khắc phục lại theo luật mới hay không? Hiện nay, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào đề cập đến chuyện này.
Thứ hai, tại sao lại có chuyện mua bán cổ phiếu lẫn nhau của GIL, MSN, KDC như trên? Có thể liệt kê một số nguyên nhân sau:
1. Các ví dụ trên không vi phạm các quy định của pháp luật có liên quan tại thời điểm đó. Trong Đại hội đồng cổ đông thường niên (ĐHĐCĐTN) 12/04/2015 của GIL, Công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) có dẫn chứng công văn của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCK) cho rằng, cổ phiếu mà công ty con mua từ công ty mẹ được xem là cổ phiếu quỹ. Tuy nhiên, quan điểm của tôi cho rằng nội dung này không hợp lý và cũng không hợp pháp vì UBCK không có quyền giải thích luật, “cổ phiếu quỹ” đã được định nghĩa “Cổ phiếu quỹ là cổ phiếu đã được phát hành bởi công ty cổ phần và được mua lại bởi chính tổ chức phát hành đó” (K1, Đ2, NĐ 58/2012/NĐ-CP), như vậy xét theo định nghĩa này, việc công ty con mua cổ phiếu của công ty mẹ không đồng nghĩa đó là cổ phiếu quỹ. Ngoài ra, theo LDN 2005, công ty con cũng là một pháp nhân độc lập, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản và nhân danh chính mình. Do đó, công ty con khi mua cổ phiếu công ty mẹ cũng có đầy đủ tư cách là cổ đông của công ty mẹ.  
2. Việc thực hiện hoạt động này có thể liên quan mong muốn giữ quyền lực của lãnh đạo doanh nghiệp trước các nhóm cổ đông mới. Ví dụ, nhóm lãnh đạo doanh nghiệp hiện tại chỉ nắm giữ 40% cổ phần, nhóm cổ đông mới nắm giữ 45% cổ phần. Như vậy, có khả năng trong kỳ bầu HĐQT mới, vị trí của nhóm lãnh đạo doanh nghiệp ban đầu có thể bị “lung lay”. Tuy nhiên, nhóm lãnh đạo hiện tại không đủ tiềm lực tài chính để mua thêm cổ phần. Do đó, họ sẽ dùng quyền lực hiện tại của mình thành lập các công ty con, cử người “thân cận” của mình lãnh đạo công ty con, sau đó công ty con có các quyết định mua cổ phần công ty mẹ, giả sử mua thêm 10% cổ phần công ty mẹ. Như vậy, tại kỳ bầu HĐQT mới, nhóm lãnh đạo ban đầu vẫn áp đảo nhóm cổ đông mới với số phiểu ủng hộ tối thiểu là 50% (40% ban đầu + 10% từ công ty con).
3. Tăng giá cổ phiếu công ty mẹ bằng lực cầu từ công ty con.
4. Giúp các cổ đông nội bộ thoái vốn với giá tốt bằng việc bán cổ phiếu cho công ty con.
5. “Lách” các quy định tương đối phức tạp, ngặt nghèo dành cho “Mua bán cổ phiếu quỹ” hiện nay.
 Thứ ba, chính từ các lý do từ phân tích tại phần trên dẫn đến sự thay đổi của LDN 2014 khi cấm việc công ty con góp vốn, mua cổ phần vào công ty mẹ; các công ty con góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn nhau. Đây là sự thay đổi hoàn toàn hợp lý của LDN 2014, bảo vệ hơn nữa quyền lợi của các cổ đông nhỏ, cổ đông bên ngoài.

       3.    Kết luận
Quy định mới của LDN 2014 là khá hợp lý, giải quyết được nhiều vấn đề đã từng tồn đọng trên TTCK thời gian vừa qua. Tuy nhiên, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn sắp  tới cần giải quyết thêm vấn đề đã được đề cập ở trên, với các giao dịch như vậy đã xảy ra trước đó sẽ được giải quyết như thế nào?



Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

Bình luận pháp lý: "Ai mới có thể làm người đại diện?"


1. Đặt vấn đề
 Theo một thông cáo NHNN thì "Ông Trầm Bê hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Sacombank tự nguyện cam kết ủy quyền không hủy ngang, vô thời hạn cho NHNN hoặc tổ chức, cá nhân do NHNN chỉ định thực hiện đầy đủ các quyền của cổ đông theo qui định của pháp luật và Điều lệ ngân hàng Southern Bank, Điều lệ ngân hàng Sacombank sau khi nhận sáp nhập Southern Bank đối với toàn bộ số cổ phần tại Sacombank, Southern Bank và ngân hàng sau sáp nhập thuộc quyền sở hữu của ông Trầm Bê và các bên có liên quan. Như vậy, ông Trầm Bê sẽ không tham gia quản trị, điều hành ngân hàng sau sáp nhập". Bài viết này tác giả không phân tích câu chuyện uỷ quyền không huỷ ngang, vô thời hạn vì trên Google có nhiều bài phân tích về vấn đề này, ngoài ra không thể nắm rõ được hợp đồng 2 bên quy định gì về việc uỷ quyền không huỷ ngang, vô thời hạn. Bài viết này tác giả làm rõ câu chuyện pháp nhân có được làm đại diện hay không?

2. Phân tích
Theo k5, điều 139 BLDS thì "Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ". Như vậy, mặc nhiên hiểu rằng chỉ có cá nhân mới có thể là người đại diện theo pháp luật dân sự. Theo điều 141 Luật Thương mại thì "Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện." Như vậy Luật thương mại không giới hạn ai mới có thể làm người đại diện. Do đó, nếu là hợp đồng uỷ quyền dưới sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, người đại diện chỉ có thể là cá nhân. Nếu là hợp đồng đại diện dưới sự điều chỉnh của pháp luật thương mại, người đại diện có thể là cá nhân, pháp nhân, tổ chức,...
Như dẫn dắt tại phần 1, câu chuyện NHNN đại diện cho ông Trầm Bê có hợp pháp hay không cần xác định rõ đây là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại. NHNN là một pháp nhân, một pháp nhân đại diện cho một cá nhân sẽ không hợp pháp theo pháp luật dân sự. Thực tế có rất nhiều nơi không công chứng cho hợp đồng đại diện này. Tuy nhiên, nếu đây là hoạt động trung gian thương mại theo pháp luật thương mại thì việc NHNN đại diện cho ông Trầm Bê hoàn toàn hợp pháp. Để xác định đây có phải là hoạt động trung gian thương mại hay không cần xét đến nội dung của hợp đồng mà 2 bên đã ký, đặc biệt là có mục đích lợi nhuận trong thoả thuận của 2 bên hay không.
Tác giả dẫn chiếu đến một câu chuyện khác để phân tích về vấn đề này. Hiện nay, nhiều công ty nước ngoài uỷ quyền cho các công ty luật tham gia các hoạt động tố tụng thay cho họ. Vậy, hợp đồng uỷ quyền này có hợp pháp? Ở đây, đang nói đến hợp đồng uỷ quyền, không phải hợp đồng dịch vụ pháp lý. Có thể nhận biết đây là hoạt động đại diện cho thương nhân vì công ty nước ngoài, công ty luật Việt Nam đều là thương nhân; có yếu tố sinh lợi trong hoạt động này vì công ty luật sẽ được nhận thù lao. Do đó, pháp nhân có thể là người đại diện trong tình huống này.

3. Kết luận

Tác giả đề xuất nên bỏ khoản 5. điều 139 BLDS vì pháp nhân cũng nên được trao quyền làm người đại diện. Chẳng có lý do gì để ngăn cản pháp nhân làm đại diện cho một pháp nhân hay một cá nhân khác. Thực tế, có rất nhiều các nhu cầu về việc pháp nhân, tổ chức đại diện cho pháp nhân, tổ chức, cá nhân khác, đặc biệt là các trường hợp đại diện cho khách hàng của họ trong các giao dịch. Do đó, pháp luật dân sự nên hợp pháp hoá quan hệ này để quan hệ này được diễn ra hiệu quả trên thực tế.

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

My Article about “Open room” for foreign investors’s ownership ratio under Decree 60/2015/ND-CP

My Article about “Open room” for foreign investors’s ownership ratio under Decree 60/2015/ND-CP

1    1. Introduction
Decree 60/2015/ND-CP (ND 60) by Government will be effective on 01/09/2015. The most important rules from this Decree is the ownership ratio of foreign investors and foreign-invested business organizations in public companies, securities-trading organizations and securities investment funds. This Article will be written to comment the rules and analyse relevant problems.

     2. Rules
Refer to clause 2, article 1 Decree 60; clause 21, article 1 Decree 60 on amending clause 9, supplementing clause 11, 12, 13 article 71 Decree 58/2012/ND-CP (ND 58). The specific rules, analysis, commentary will be written at the part 3.

     3. Analysis
3.1.         What is the room?
Room is the informal word used by investors to describe clause 13, article 2 ND 58 amended by clause 1, article 1 ND 60: “foreign ownership ratio is  the sum of shares with right to vote or capital contribution ownership ratio from all foreign investors and foreign-invested business organizations with 51% of charter capital or more is held by foreign investors in public companies, securities-trading organizations and securities investment funds”. The old rule in Decree 58: “The maximum foreign ownership ratio is the maximum securities that foreign individuals and organizations hold under relevant Vietnamese Laws”. The old rule depends on definition of foreign investor from Law on Investment 2005. Law on Investment 2014 changes that definition, in detail: “Foreign investor means an individual holding a foreign nationality or an organization established under foreign laws making business investment in Vietnam”. Besides, there are foreign-invested business organizations (not a form of foreign investors) when contributing capital, buying shares must satisfy conditions and follow investment procedures applied to foreign investors:
a.     51% of charter capital or more is held by foreign investors, or the majority of the general partners are foreigners if the business organization is a partnership; (F)
b.     51% of charter capital or more is held by the business organizations mentioned in Point a of this Clause; (F1)
c.      51% of charter capital or more is held foreign investors and the business organizations mentioned in Point a of this Clause. (F2)
 In brief, F and foreign investors will contribute capital, buy shares under ND 60. F1 and F2 can unlimitedly contribute capital, buy shares in public companies, securities-trading organizations and securities investment funds. It’s the difference between Law on Investment 2014 and ND 60. In my opinion, ND 60 must conform to Law on Investment 2014.
3.2.         Room in public companies:
a.     If an international treaty of which the Socialist Republic of Vietnam is a member contains provisions about foreign ownership ratio, the provisions of such international treaty shall apply.
b.     If public companies operate in business lines and sectors for which the laws have specific provisions on the foreign-ownership ratio, these specific provisions apply for them. If public companies operate in business lines and sectors, in which there have been conditions applicable to foreign investor, but there have been no specific provisions on foreign ownership ratio, the maximum foreign ownership ratio is 49 percent.
c.      If public companies operate in multi-business lines and multi-sectors; and there have been other regulations on foreign-investor ownership applicable to each business line and sector, the maximum foreign ownership ratio in these companies do not exceed the lowest level of a business line or sector provided in the regulations on foreign ownership, except for international treaties that have some other provisions.
d.     Except that cases, the foreign ownership ratio is not limited except the company charter has other provisions.
Nowadays, there are no legal normative document indicating what the condition investment, business lines applied to foreign investors are. Appendix 4 of Law on Investment 2014 is the list of conditional business, invesment lines. Is this list the same as list of condition investment, business lines applied to foreign investors as indicated in ND 60? I think this list can be applied to foreign investors because Foreign investors and F’s nvestment, business activities are regulated by Law on Investment 2014. Therefore, this list is applied to both Vietnames investors, foreign investors and foreign – invested business organization. In brief, clause b indicated above will be referred to list of conditional investment, business lines in Law on Investment 2014 (includes 267 conditional investment, business lines), in international agreement to which Vietnam is a member and in other legal normative documents by the National Assembly.
3.3.         Room in securities investment funds and securities - trading organizations:
       a. Foreign investors may own an indefinite amout of charter capital invested in securities – trading organizations, fund certificates invested in securities investment funds.
      b.  A foreign investor who is an organization under clause 10, article 71, ND 58 may own 100% ratio of charter capital invested in a securities – trading organization; establish a wholly foreign – invested securites – trading organization. In case a foreign investors who is an individual or not a organization under clause 10, article 71, ND 58 may only own below 51% charter capital invested in securities – trading organizations.

In brief, room in securities investment funds and securities - trading organizations is 100% if their owners allow that. However, if only one foreign investor who is an organization or an individual “control” securities – trading organizations, he must conform to clause b above.

      4. Conclusion
There are a lot of public companies which is full or ready to be full of room, such as: HCM, SSI, VNM, JVC, DHG, FPT, REE,..To know whether they can be allowed to open room or not, they must depend on some legal normative documents guiding ND 60, Law on Investment 2014. Only one thing is sure: public companies are securities – trading organizations allowed to open room up to 100% under General Meeting of Shareholders’s decision. 

Bình luận “nới room” qua Nghị định 60/2015/NĐ-CP

Bình luận “nới room” qua Nghị định 60/2015/NĐ-CP


      1. Đặt vấn đề
 Ngày 01/09/2015, Nghị định 60/2015/NĐ-CP (NĐ 60) của Chính phủ chính thức có hiệu lực, trong đó các quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài trong các công ty đại chúng, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán (room) là điều được quan tâm nhất. Bài viết bình luận các quy định này, cũng như lý giải các vấn đề liên quan.

 2. Các quy định
 Toàn bộ các quy định về room được nêu chi tiết trong khoản 2, Điều 1 NĐ 60; khoản 21, Điều 1 NĐ 60 sửa đổi khoản 9, bổ sung khoản 11, 12, 13 Điều 71 Nghị định 58/2012/NĐ-CP (NĐ 58). Phần bình luận sau sẽ nêu cụ thể các quy định, cũng như phân tích, bình luận các quy định đó.

 3. Bình luận
 Thế nào là room?
Room là từ ngữ được các nhà đầu tư chứng khoán sử dụng như cách nói ngắn gọn cho khoản 13, NĐ 58 đã được sửa đổi bởi NĐ 60. Theo đó, room là “Tỷ lệ sở hữu nước ngoài là tổng tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp có quyền biểu quyết của tất cả nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên trong một công ty đại chúng, tổ chức kinh doanh chứng khoán hoặc quỹ đầu tư chứng khoán”. Trước đó, NĐ 58 quy định “Tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa là tỷ lệ sở hữu chứng khoán mà cá nhân, tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa trong một doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Quy định cũ được viết dựa trên các quy định của Luật đầu tư 2005 về nhà đầu tư nước ngoài. Sau này, Luật đầu tư 2014 ra đời đã định nghĩa lại khái niệm “nhà đầu tư nước ngoài”, do đó room theo NĐ 58 cũng phải thay đổi theo các quy định của Luật đầu tư mới. Vì vậy, NĐ 60 ra đời sửa đổi khái niệm này để phù hợp với các quy định tại Luật đầu tư 2014. Cụ thể, “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”[1]. Tuy nhiên, tại khoản 1, Điều 23 Luật đầu tư 2014 đã quy định thêm một chủ thể nữa không phải là nhà đầu tư nước ngoài nhưng khi thực hiện các hoạt động góp vốn, mua cổ phần phải tuân theo các quy định như nhà đầu tư nước ngoài, đó là các tổ chức kinh tế:
a.     Có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh (F);
b.     Có tổ chức kinh tế quy định tại điểm a khoản này nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên (F1);
c.      Có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế quy định tại điểm a khoản này nắm giữ từ 51 % vốn điều lệ trở lên (F2).
Như vậy, quy định về room trong NĐ 60 cho các tổ chức kinh tế được đối xử như nhà đầu tư nước ngoài chỉ giới hạn ở điểm a, khoản 1, Điều 23 Luật đầu tư 2014. Do đó, các F1, F2 có thể mua không hạn chế cổ phần tại các công ty đại chúng ở Việt Nam. Như vậy, các quy định về room mong muốn hạn chế sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài với các công ty đại chúng là chưa hiệu quả vì các F1, F2 có thể có toàn quyền kiểm soát các công ty đại chúng, mà kiểm soát các F1, F2 này lại là các nhà đầu tư nước ngoài.

 Room với các công ty đại chúng:
a) Trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì thực hiện theo điều ước quốc tế;

b) Trường hợp công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh mà pháp luật về đầu tư, pháp luật liên quan có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài thì thực hiện theo quy định tại pháp luật đó.

Đối với công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài mà chưa có quy định cụ thể về sở hữu nước ngoài, thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa là 49%;

c) Trường hợp công ty đại chúng hoạt động đa ngành, nghề, có quy định khác nhau về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài không vượt quá mức thấp nhất trong các ngành, nghề (mà công ty đó hoạt động) có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định khác;

d) Đối với công ty đại chúng không thuộc các trường hợp quy định tại Điểm a, b, c Khoản này, tỷ lệ sở hữu nước ngoài là không hạn chế, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.
Hiện nay, không có văn bản quy phạm pháp luật nào liệt kê đầy đủ các ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài. Tại Phụ lục 4 của Luật đầu tư 2014 có liệt kê danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Vậy danh mục này có đồng nghĩa với “ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài” hay không? Hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài, F là đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư 2014. Do đó, danh mục này cũng được áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài và F. Ngoài ra, theo điều 8 Luật đầu tư 2014, chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung danh mục ngành nghề kinh doanh, đầu tư có điều kiện. Do đó, điểm b ở trên chỉ phụ thuộc vào 267 ngành nghề kinh doanh, đầu tư có điều kiện trong Phụ lục 4 này và các ngành nghề kinh doanh, đầu tư có điều kiện trong các điều ước quốc tế (nếu có). Như vậy, đầu tiên room phải tuân theo quy định về room trong các điều ước quốc tế. Thứ hai, room phải tuân theo quy định về room trong các pháp luật có liên quan. Thứ ba, nếu là công ty đại chúng hoạt động trong 267 ngành nghề kinh doanh, đầu tư có điều kiện mà không có quy định về room thì mặc định room là 49%. Thứ tư, Công ty đại chúng hoạt động đa ngành thì room là mức thấp nhất của ngành nghề có quy định về room. Không thuộc các trường hợp trên thì room do Đại hội đồng cổ đông công ty đại chúng tự quyết định.

 Room với các quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán:
a.     Nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư không hạn chế vào chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán, cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán, cổ phiếu không có quyền biểu quyết của công ty đại chúng, chứng khoán phái sinh, chứng chỉ lưu ký, trừ trường hợp điều lệ của tổ chức phát hành có quy định khác[2].
b.     Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức đáp ứng điều kiện quy định tại Khoản 10 Điều 71, NĐ 58 thì được mua để sở hữu đến 100% vốn điều lệ của tổ chức kinh doanh chứng khoán; được thành lập tổ chức kinh doanh chứng khoán 100% vốn nước ngoài. Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức không đáp ứng quy định tại Khoản 10 Điều 71, NĐ 58 hoặc là cá nhân thì chỉ được sở hữu dưới 51% vốn điều lệ của tổ chức kinh doanh chứng khoán
Như vậy, room dành cho nhà đầu tư nước ngoài có thể lên tới 100% tuỳ vào quyết định của chủ sở hữu tổ chức kinh doanh chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, nếu chỉ một tổ chức nước ngoài, một cá nhân nước ngoài muốn “thâu tóm” tổ chức kinh doanh chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán thì buộc phải tuân theo điểm b như trên.

     4.  Kết luận
 Có rất nhiều cổ phiếu đã kín hoặc gần kín room trên TTCK VN như: HCM, SSI, VNM, JVC, DHG, FPT, REE,..Tuy nhiên, để biết liệu từ ngày 01/09/2015, các cổ phiếu này có thể được nới room hay không cần phải dựa thêm vào các văn bản pháp luật hướng dẫn thêm về NĐ 60, các ngành nghề mà các doanh nghiệp kinh doanh có rơi vào các trường hợp đã phân tích ở trên hay không. Chỉ có một điều chắc chắn là các cổ phiếu thuộc dòng chứng khoán được nới room 100% nếu Đại hội đồng cổ đông đồng ý. Các cổ phiếu khác thì còn phải tiếp tục chờ…





[1] Khoản 14, Điều 3 Luật đầu tư 2014
[2] Khoản 4, Điều 2a bổ sung sau Điều 2, NĐ 58/2012/NĐ-CP theo NĐ 60/2015/NĐ-CP  

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

Bình luận các quy định trong Quy chế ban hành theo Quyết định 637/UBCK năm 2011 về chứng khoán được phép mua ký quỹ

Bình luận các quy định trong Quy chế ban hành theo Quyết định 637/UBCK năm 2011 về chứng khoán được phép mua ký quỹ

1. Đặt vấn đề
  Không phải chứng khoán nào cũng được phép mua ký quỹ. Muốn "lọt" vào danh sách mua ký quỹ của công ty chứng khoán, chứng khoán niêm yết phải trải qua 3 vòng, vòng một từ các quy định của UBCKNN, vòng hai từ Sở giao dịch chứng khoán và vòng ba từ các công ty chứng khoán. UBCKNN nêu ra các điều kiện chung để "loại" những chứng khoán không đủ tiêu chuẩn ra khỏi danh sách chứng khoán có thể mua ký quỹ. Trên cơ sở đó, Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh công bố danh sách chứng khoán không được phép giao dịch ký quỹ trên HOSE và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội công bố danh sách chứng khoán không được phép giao dịch ký quỹ trên sàn HNX. Từ đó, các công ty chứng khoán lựa chọn danh sách chứng khoán được phép mua ký quỹ phù hợp với mình.

2. Bình luận
 Chỉ có cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung, là sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) mới nằm trong danh mục ký quỹ. Đồng thời, UBCKNN đặt ra các điều kiện để loại các chứng khoán ra khỏi danh mục có thể ký quỹ trong Điều 10 của Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011 là hợp lý vì nó đảm bảo sự an toàn cho các nhà đầu tư, công ty chứng khoán, tổ chức phát hành và cả TTCK:
 Thứ nhất, “Có thời gian niêm yết dưới 06 tháng tính đến thời điểm công bố danh sách; trường hợp cổ phiếu chuyển sàn niêm yết thì thời gian niêm yết được tính là tổng thời gian niêm yết ở cả hai Sở Giao dịch chứng khoán”[1]. Quy định thời gian tối thiểu niêm yết để đảm bảo cổ phiếu đó đã được thị trường nhận diện, theo dõi. Các chủ thể tham gia, quản lý thị trường đã có những hiểu biết nhất định về cổ phiếu đó, qua đó giúp khách hàng đầu tư hợp lý hơn, các công ty chứng khoán và cơ quan Nhà nước quản lý tốt hơn.
 Thứ hai, “Bị đặt trong tình trạng bị tạm ngừng giao dịch, bị đưa vào diện cảnh báo, bị hủy niêm yết, bị đưa vào diện kiểm soát”[2]. Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ của các tổ chức phát hành đang có vấn đề trong hoạt động của mình dẫn đến bị tạm ngừng giao dịch, cảnh báo,…thì không được phép mua ký quỹ. Đây là quy định hợp lý để đảm bảo cho quyền lợi nhà đầu tư và thị trường. Một cổ phiếu đã rơi vào tình trạng như vậy thường do kinh doanh kém, gặp các vấn đề về tài chính và quản trị, do đó không thể hi vọng gì vào việc trong ngắn hạn nó sẽ tăng giá. Mà mục đích của mua ký quỹ là mong muốn nó tăng giá. Tương tự như vậy là trường hợp “Kết quả kinh doanh của tổ chức niêm yết chứng khoán là có lỗ căn cứ trên báo cáo tài chính gần nhất đã kiểm toán hoặc có ý kiến soát xét của tổ chức kiểm toán (tùy trường hợp nào gần nhất thời điểm xem xét); Trường hợp tổ chức niêm yết là quỹ đầu tư đại chúng, có tối thiểu một tháng có giá trị tài sản ròng (NAV) tính trên một đơn vị chứng chỉ quỹ nhỏ hơn mệnh giá căn cứ trên báo cáo thay đổi giá trị tài sản ròng hàng tháng xét trong 03 tháng liên tiếp tính đến thời điểm được lựa chọn để giao dịch ký quỹ”[3].
     Ngoài ra, còn có một số hạn chế mua ký quỹ đối với một số trường hợp sau:
 Thứ nhất, hạn chế dòng tiền mua ký quỹ đi vào các cổ phiếu liên quan tới công ty chứng khoán mà khách hàng mở tài khoản bằng việc không cho phép mua ký quỹ trong trường hợp: “Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư do chính công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành trong vòng sáu (06) tháng tính từ khi hoàn tất đợt phát hành”[4], “cổ phiếu của công ty niêm yết sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán và đối với cổ phiếu của công ty niêm yết do công ty chứng khoán sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ”[5], “cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành”[6]. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư trên TTCK. Rõ ràng, sẽ là không công bằng nếu công ty chứng khoán dùng vốn của mình cho các nhà đầu tư mua lại các cổ phiếu, chứng chỉ quỹ liên quan tới quyền lợi của mình. Ví dụ, nếu cho phép khách hàng mua ký quỹ cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành thì chẳng khác nào cho khách hàng dùng tiền của mình mua lại cổ phiếu của chính mình, qua đó làm tăng giá bất hợp lý cổ phiếu của mình, ảnh hưởng xấu tới thị trường. Đồng thời, khi tài khoản giao dịch ký quỹ đó rơi vào tình trạng phải bán giải chấp thì công ty chứng khoán lại phải bán giải chấp cổ phiếu của chính mình phát hành. Ngoài ra, các công ty chứng khoán chắc chắn biết rõ tình hình kinh doanh của mình. Khi đó, vì lợi nhuận hoặc một mục đích nào đó, công ty chứng khoán sẽ phát hành các báo cáo, phân tích khuyến khích khách hàng mua cổ phiếu của chính mình, cho dù tình hình kinh doanh của mình không tốt. Điều đó sẽ ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của khách hàng. Thực tế, các công ty chứng khoán đang làm không tốt việc này. Trong danh mục cổ phiếu được phép mua ký quỹ cập nhật tại website cafef.vn[7], SSI cho khách hàng mua ký quỹ cổ phiếu SSI, tương tự là FPTS với cổ phiếu FPT, công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam (CTS) với cổ phiếu CTG[8], công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BSI) với cổ phiếu BID[9],…Vấn đề này xuất phát từ áp lực về lợi nhuận của các công ty chứng khoán, các cổ phiếu SSI, FPT, CTG, BID,… là các cổ phiếu rất được quan tâm trên TTCK, thanh khoản cao, cho phép khách hàng mua ký quỹ là đem lại doanh thu mua ký quỹ và phí giao dịch lớn cho các công ty chứng khoán, từ đó tăng lợi nhuận cho họ. Các hoạt động này đã diễn ra từ rất lâu và vẫn chưa thấy bất kỳ công ty chứng khoán nào bị phạt. Điều này tạo ra sự bất công bằng với các công ty chứng khoán khác và đôi khi ảnh hưởng tới quyền lợi của nhà đầu tư. Chế tài xử phạt đã có, “Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với công ty chứng khoán vi phạm quy định về giao dịch ký quỹ chứng khoán”[10], do đó rất cần UBCKNN kiểm tra và xử phạt với các trường hợp này để đem lại sự lành mạnh cho TTCK.
 Thứ hai, “khi khách hàng không bảo đảm tỷ lệ ký quỹ theo quy định tại Hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ và các quy định tại Quy chế này”[11]. Quy định này nhằm tránh rủi ro cho công ty chứng khoán. Vì nếu khách hàng mua ký quỹ mà không đảm bảo tỷ lệ ký quỹ sẽ gây rủi ro cho các công ty chứng khoán trong việc thu hồi lại khoản vay. Cũng giống như các ngân hàng làm mọi cách để hạn chế nợ xấu thì đây cũng là một cách để công ty chứng khoán phòng chống nợ xấu cho mình.

3. Kết luận.
 Các quy định hiện nay của UBCKNN là tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tế việc áp dụng các quy định trên của các chủ thể tham gia TTCK, thậm chí cả việc áp dụng các quy định do chính mình ban hành để quản lý TTCK của UBCKNN cũng chưa tốt. Do đó, cần thiết tất cả các chủ thể tham gia TTCK tuân thủ triệt để các quy định pháp luật nhằm đảm bảo sự vận hành minh bạch, công bằng của TTCK.




[1] Điều 10 khoản 1 Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[2] Điều 10 khoản 2 Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[3] Điều 10 khoản 3 Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[4] Điều 12 khoản 1 điểm a Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[5] Điều 12 khoản 1 điểm b Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[6] Điều 12 khoản 1 điểm c Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[7] Dữ liệu tại http://s.cafef.vn/margin/company.chn#data, truy cập ngày 14/07/2015.
[8] Mã cổ phiếu ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng này cũng là công ty mẹ của CTS.
[9] Mã cổ phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng này là công ty mẹ của BSI.
[10] Điều 21 khoản 3 điểm g 108/2013/NĐ-CP.
[11] Điều 12 khoản 1 điểm d Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.

Thứ Hai, 3 tháng 8, 2015

Bình luận về vụ tranh chấp giữa FPTS và khách hàng trong việc bán giải chấp ở tài khoản Margin

Bình luận về vụ tranh chấp giữa FPTS và khách hàng trong việc bán giải chấp ở tài khoản Margin


1. Vấn đề
    Xem thêm diễn biến tranh chấp này tại Anh Việt, “Thực hư việc nhà đầu tư tố cáo môi giới FPTS”, http://tinnhanhchungkhoan.vn/chung-khoan/thuc-hu-viec-nha-dau-tu-to-cao-moi-gioi-fpts-110166.html, truy cập ngày 14/07/2015.
    Tóm tắt vụ việc như sau: Khách hàng mở tài khoản giao dịch ký quỹ tại Công ty chứng khoán FPT (FPTS). Khách hàng được cấp hai tài khoản là tài khoản thường và tài khoản giao dịch ký quỹ. Khách hàng mua cổ phiếu PVB trên cả hai tài khoản. Giai đoạn đó, giá cổ phiếu PVB sụt giảm mạnh khiến tài khoản ký quỹ của nhà đầu tư rơi vào tình trạng hụt tiền ký quỹ, tức là vượt khỏi ngưỡng an toàn. Khách hàng quyết định bán cổ phiếu PVB trong tài khoản thường nên tài khoản thường đang có một lượng dư tiền mặt lớn, đủ đề bù đắp hụt tiền ký quỹ. Tuy nhiên, tài khoản ký quỹ của khách hàng thì lại đang sử dụng tối đa tiền vay để mua cổ phiếu PVB. Khi đó, FPTS đã thông báo tới khách hàng và quyết định bán giải chấp cổ phiếu PVB trong tài khoản giao dịch ký quỹ. Khách hàng phản đối vì cho rằng tiền trong tài khoản thường còn rất nhiều, đủ đề bù đắp thiếu hụt tiền ký quỹ trong tài khoản giao dịch ký quỹ, không đồng ý với việc bán giải chấp của FPTS.

2. Bình luận
  Thứ nhất, khách hàng và FPTS đã ký hợp đồng sử dụng dịch vụ giao dịch ký quỹ này, do đó trước hết cần theo dõi các điều khoản của hợp đồng có quy định về vấn đề này hay không[1]? Đọc hợp đồng mẫu của FPTS sẽ không thể tìm thấy thỏa thuận của hai bên về việc công ty chứng khoán có thể tự động chuyển đổi qua lại tiền và chứng khoán của hai tài khoản. Chỉ có nhà đầu tư mới được phép tự mình chuyển đổi tiền và chứng khoán qua lại giữa hai tài khoản.
  Thứ hai, tại điểm a, khoản 3, Điều 8 của Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011 thì một nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài khoản giao dịch ký quỹ là “Tài khoản giao dịch ký quỹ phải được quản lý tách biệt với tài khoản giao dịch thông thường”. Như vậy, hai tài khoản này độc lập với nhau.
 Do đó, trường hợp này công ty chứng khoá FPTS đã đúng khi bán giải chấp cổ phiếu khi tài khoản ký quỹ rơi vào tình trạng vượt ngưỡng an toàn. Khách hàng không thể viện dẫn lý do tài khoản thường còn tiền để buộc công ty chứng khoán phải trích tiền từ tài khoản thường sang tài khoản ký quỹ.
     Quy định như vậy của UBCKNN có hợp lý hay không? Theo tác giả, các công ty chứng khoán trong hoạt động quản lý giao dịch ký quỹ với khách hàng luôn là bên có nhiều lợi thế. Do đó, thiết nghĩ pháp luật nên quy định các công ty chứng khoán cần có nghĩa vụ hoạt động vì lợi ích của khách hàng. Trong tranh chấp trên, công ty chứng khoán hoàn toàn biết được tiền của khách hàng tại hai tài khoản là bao nhiêu, chứng khoán đang ở tình trạng nào. Do đó, sẽ là hợp lý hơn nếu như pháp luật cho phép công ty chứng khoán khấu trừ tiền trong tài khoản thường để bù trừ thiếu hụt tiền trong tài khoản giao dịch ký quỹ. Điều này sẽ giúp khách hàng bớt đi thủ tục chuyển tiền từ tài khoản thường sang tài khoản giao dịch ký quỹ hoặc phải nạp thêm tiền vào tài khoản giao dịch ký quỹ hoặc phải bán bớt cổ phiếu trong tài khoản giao dịch ký quỹ khi không muốn thực hiện chuyện đó. Quan trọng hơn là công ty chứng khoán cũng không thiệt hại gì từ việc này, đặc biệt là khi khách hàng không phải lúc nào cũng ở trong tình trạng có thể giải quyết việc thiếu hụt tiền trong tài khoản giao dịch ký quỹ nhanh chóng. Nếu khách hàng đang bận du lịch, ở nơi không có Internet, bận việc riêng,…dẫn đến không giải quyết chuyện hụt tiền trong tài khoản giao dịch ký quỹ, còn công ty chứng khoán không thông thoáng bù tiền qua lại 2 tài khoản sẽ dẫn đến thiệt hại lớn cho khách hàng. Thiết nghĩ, UBCKNN nên thay đổi quy định này để bảo vệ tốt hơn nữa quyền lợi cho nhà đầu tư. Cũng là vấn đề đó nhưng liên quan đến quyền lợi của công ty chứng khoán là nếu giá cổ phiếu mà khách hàng mua ký quỹ giảm mạnh, đồng thời thanh khoản kém thì công ty chứng khoán không thể bán giải chấp cổ phiếu đó được vì không ai mua. Vậy công ty chứng khoán có được chuyển tiền từ tài khoản thường của khách hàng để bù trừ thiếu hụt bên tài khoản giao dịch ký quỹ hay không? Theo pháp luật hiện hành thì điều này là không được và công ty chứng khoán phải gánh chịu rủi ro cho mình. Do đó, cần thiết để UBCKNN nên quy định thêm về vấn đề này.  

3. Kết luận
 Khi giá cổ phiếu lên giá, ai cũng "sung sướng", khi giá giảm ai cũng "buồn". Tệ hại hơn nữa là giá giảm mạnh đến mức phải bán giải chấp. Thiết nghĩ, pháp luật chứng khoán cần quy định cụ thể hơn về vấn đề này để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy nhà đầu tư khó có thể "kỳ kèo" sửa đổi các hợp đồng giao dịch ký quỹ mẫu với các công ty chứng khoán vì nhiều lý do như kiến thức có hạn, lợi thế của công ty chứng khoán, không lường trước vấn đề,...Vì vậy, chỉ có pháp luật mới có thể "giúp đỡ" các nhà đầu tư trong các vấn đề này.



[1]Xem thêm Hợp đồng giao dịch ký quỹ mẫu của FPTS tại https://eztrade.fpts.com.vn/upload/HopDongGiaoDichKyQuy pdf.