Trên thực tế, cụm từ
“ký quỹ” xuất hiện khá nhiều. Chúng ta thường nghe đến: tiền gửi ký quỹ tại
các ngân hàng thương mại, tiền ký quỹ thuê nhà, tiền ký quỹ thực hiện hợp đồng,…Tất
cả các loại ký quỹ này đều được hiểu là ký quỹ theo quy định của Bộ luật dân sự
2005. Ký quỹ là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự [1], cụ
thể: “Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá
quí hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng để bảo đảm
việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền được ngân hàng nơi ký quỹ
thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra, sau khi trừ chi phí
dịch vụ ngân hàng. Thủ tục gửi và thanh toán do pháp luật về ngân hàng quy định”[2].
Ký quỹ trong giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán (TTCK) cũng mang ý nghĩa tương tự, thể hiện
tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của nhà đầu tư với công ty chứng khoán. Tuy
nhiên, giao dịch ký quỹ trên TTCK có những điểm khác biệt cơ bản với khái niệm
ký quỹ trong pháp luật dân sự. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam hiện tại chỉ cho phép mua ký quỹ (hiểu là vay tiền của công ty chứng khoán để mua chứng khoán), không cho phép bán khống chứng khoán (hiểu là vay chứng khoán từ công ty chứng khoán để bán ra thị trường). Vì vậy, trong bài viết này, giao dịch ký quỹ được hiểu là mua ký quỹ.
2. Phân biệt
Thứ nhất, về chủ thể, hợp đồng giao dịch ký quỹ
chỉ có hai bên là công ty chứng khoán và nhà đầu tư, không có bất cứ bên liên
quan nào. Còn ký quỹ theo Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 sẽ có 3 bên: người ký
quỹ là bên có nghĩa vụ từ một hợp đồng chính, bên có quyền lợi từ hợp đồng
chính, ngân hàng là nơi nhận tài sản ký quỹ. Hơn thế nữa, giao dịch ký quỹ bắt buộc phải được thực hiện trên tài khoản ký quỹ (margin account) được mở tại công ty chứng khoán và nhà đầu tư thực hiện giao dịch ký quỹ buộc phải vay tiền từ công ty chứng khoán để mua chứng khoán.
Thứ hai, về tài sản ký quỹ. Trong giao dịch ký
quỹ trên TTCK, chỉ được ký quỹ tiền và chứng khoán. Còn ký quỹ theo BLDS 2005,
ngoài tiền, có thể ký quỹ vàng, bạc, giấy tờ có giá,…
Thứ ba, về giao dịch tài sản ký quỹ. Với ký quỹ
trong pháp luật dân sự thì tài sản ký quỹ được gửi vào tài khoản ngân hàng và
tài khoản ấy bị phong toả, như vậy không ai có thể tác động vào tài khoản ấy
trong thời gian thực hiện nghĩa vụ từ hợp đồng chính. Với giao dịch ký quỹ trên
TTCK, nhà đầu tư có thể lấy tiền ký quỹ ban đầu để mua chứng khoán, sau đó lấy
chứng khoán đấy cầm cố vay tiền từ công ty chứng khoán để tiếp tục mua chứng
khoán. Như vậy, tài sản ký quỹ chuyển hoá từ tiền thành chứng khoán. Và chứng
khoán đã mua về lại có thể tiếp tục được bán đi. Đó là một chuỗi mua bán chứng
khoán diễn ra liên tục trong giao dịch ký quỹ trên TTCK. Thực ra, cách dùng từ tài sản ký quỹ còn gây nhiều tranh cãi, theo tác giả, chính xác hơn phải gọi đó là tài sản cầm cố. Cụ thể, nếu nhà đầu tư có sẵn chứng khoán thì có thể cầm cố chứng khoán để vay tiền mua chứng khoán khác, nếu nhà đầu tư có tiền thì sẽ mua chứng khoán về, sau đó lại cầm cố chứng khoán đã mua đó để vay tiền mua chứng khoán khác.
3. Kết luận.
Phân biệt giao dịch ký quỹ trên TTCK và ký quỹ trong pháp luật dân sự giúp các nhà đầu tư nhận thức rõ hơn hoạt động đầu tư của mình đang chịu sự điều chỉnh của pháp luật nào. Ngoài ra, bài viết giúp làm rõ khái niệm giao dịch ký quỹ với các giao dịch khác có nội dung gần giống với giao dịch ký quỹ, qua đó nhận thức sự khác biệt này để hiểu hơn các quy định có liên quan, tạo tiền đề cho các hoạt động đầu tư theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành.
Nội dung bài phân tích được trích dẫn từ Luận văn tốt nghiệp "Pháp luật về giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán" đạt điểm 9.5 của tác giả tại khoa Luật Thương mại, trường ĐH Luật TPHCM năm 2015.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét