1. Đặt vấn đề
Giao dịch ký quỹ gồm mua ký quỹ và bán khống chứng khoán. Đây là hai hoạt động độc lập, có nội dung khác nhau nhưng đều là một phần của giao dịch ký quỹ. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép mua ký quỹ và cấm bán khống chứng khoán. Bài viết này tập trung làm rõ thuật ngữ mua ký quỹ theo các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành.
2. Phân tích
Có sự khác nhau trong định
nghĩa về “mua ký quỹ” giữa Bộ tài chính (BTC) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (SGDCK HN). Cụ thể, “Giao dịch mua ký quỹ chứng khoán (margin) là giao dịch mua chứng khoán
của khách hàng có sử dụng tiền vay của công ty chứng khoán và sử dụng các chứng
khoán khác có trong tài khoản và chứng khoán mua được bằng tiền vay để cầm cố”[1] là
cách định nghĩa của BTC. Còn SGDCK HN định nghĩa “Mua ký quỹ (margin purchase),
người đầu tư chỉ cần có một phần tiền trong tổng giá trị số chứng khoán đặt
mua, phần còn lại do công ty chứng khóan cho vay. Sau khi giao dịch được thực
hiện, số chứng khoán đã mua của khách hàng được công ty chứng khoán giữ lại làm
thế chấp cho khoản vay”[2].
Hai điểm khác nhau cơ bản trong hai định nghĩa này:
Thứ nhất, BTC dùng từ “margin”, còn SGDCK HN
dùng từ “margin purchase” để nói về giao dịch mua ký quỹ chứng khoán. Theo tác
giả, cách dùng từ của SGDCK HN là chính xác hơn. Giao dịch mua ký quỹ chứng
khoán không đồng nghĩa với “margin”. “Margin” theo từ điển Lạc Việt Anh–Việt
thì mang nghĩa là số dư. Ở đây, “margin account” thể hiện một tài khoản có số
dư, số dư tiền hoặc chứng khoán. Giao dịch trên “margin account” (tài khoản
giao dịch ký quỹ), hay còn gọi là “margin trading”, nói ngắn gọn lại là giao dịch
ký quỹ. Việc nhà làm luật dùng dấu ngoặc đơn để nói rằng giao dịch mua ký quỹ
chứng khoán là “margin” vô tình đã làm sai đi khái niệm “margin”. Có thể hiểu ý
chí của BTC khi ban hành thông tư này là do chúng ta chưa cho phép bán khống
nên “margin” cứ tạm hiểu là mua ký quỹ. Điều này sẽ dẫn đến một ngày khi chấp
nhận bán khống, nhà làm luật sẽ lại phải sửa khái niệm về mua ký quỹ này. Rõ
ràng, một văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành cần sự chính xác về từ ngữ, đồng
thời nên dự trù cho những khả năng phát sinh trong tương lai.
Thứ hai, chứng khoán mua về được cầm cố (theo cách
viết của TT số 74/2011/TT-BTC) hay thế chấp (theo thuật ngữ mà SGDCK HN sử dụng)?
Theo tác giả, cách dùng từ của BTC là đúng. Theo khoản 1, Điều 1 của Nghị định
11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì “Giấy tờ có
giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền
gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị
giá được thành tiền và được phép giao dịch”. Mà giấy tờ có giá thì đương nhiên
là chỉ có thể được cầm cố chứ không thể thế chấp được. BLDS 2005 quy định “Cầm
cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự”[3].
“Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau
đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế
chấp”[4].
Như vậy, hiểu đơn giản là cầm cố thì chuyển giao tài sản cho bên kia, còn thế
chấp thì không. Với các loại cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn giao dịch
chứng khoán hiện nay thì thường tồn tại dưới hình thức dữ liệu điện tử, mà tại
đó, khi khách hàng dùng nó để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ với công ty chứng khoán
thì công ty chứng khoán sẽ phong toả, quản lý chứng khoán ấy. Chứng khoán ấy nằm
trong tài khoản của khách hàng, nhưng tài khoản của khách hàng thì được quản lý
bởi công ty chứng khoán. Muốn bán các chứng khoán ấy, khách hàng phải thực hiện
lệnh thông qua công ty chứng khoán. Do đó, có thể nói chứng khoán đã được chuyển
giao cho công ty chứng khoán, nên dùng từ “cầm cố” là hợp lý. Tham khảo cách hiểu
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tại điểm c, 2.1, mục I, Thông tư số 07/2003/TT-NHNN
thì cổ phiếu là tài sản có thể cầm cố. Tham khảo Điều 338 Dự thảo sửa đổi BLDS
2005 của Bộ tư pháp cũng có nói đến “cầm cố chứng khoán”. Có thể thấy, các
văn bản và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hiện nay đang khá nhất quán về
câu chuyện cầm cố chứng khoán, chứ không phải thế chấp chứng khoán. Tuy nhiên
trên thực tế, không chỉ SGDCK HN mà còn rất nhiều công ty chứng khoán, báo
chí,…hay gặp phải lỗi sai này, hoặc là dùng từ “thế chấp cổ phiếu”, “bán giải
chấp “ (là bán chứng khoán đang được thế chấp) hoặc là “cầm cố, thế chấp cổ phiếu”.
Ngay cả quy chế về giao dịch ký quỹ do UBCKNN ban hành với Quyết định 637/QĐ-UBCK
năm 2011 cũng dùng từ “thế chấp” đối với chứng khoán trong chương 6, “Quy định
về ký quỹ, thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế chấp”. Do đó, cần thống nhất rằng
chứng khoán (ở đây đang nói đến cổ phiếu và chứng chỉ quỹ vì giao dịch ký quỹ
chỉ áp dụng với hai loại chứng khoán này) là được cầm cố chứ không phải thế chấp.
3. Kết luận
Các quy định của pháp luật luôn đòi hỏi sự chính xác về ngôn ngữ. Bài viết trên nhằm chỉ rõ cách sử dụng từ ngữ chưa chính xác về mua ký quỹ trong các văn bản pháp luật chứng khoán. Nội dung bài phân tích được trích dẫn từ Luận văn tốt nghiệp "Pháp luật về giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán" đạt điểm 9.5 của tác giả tại khoa Luật Thương mại, trường ĐH Luật TPHCM năm 2015.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét