Bùi Đại Huynh - B.L and B.B.A

Tác giả của Blog này.

Mr. Huynh

Chuyên nghiên cứu pháp luật về chứng khoán, ngân hàng, đầu tư, doanh nghiệp.

Tác giả cùng bạn bè tại Đại học Luật TPHCM

Các nam cử nhân tại lớp QTL35 ĐH Luật TPHCM - tháng 7/2015.

Tác giả tại ĐH Luật TPHCM

Sáng tri thức - Vững công minh.

Khát vọng làm giàu

Ước mơ có thật nhiều tiền không bao giờ là xấu, cái xấu là có nhiều tiền bằng các hành vi vi phạm pháp luật.

Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

Bình luận pháp lý: "Ai mới có thể làm người đại diện?"


1. Đặt vấn đề
 Theo một thông cáo NHNN thì "Ông Trầm Bê hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Sacombank tự nguyện cam kết ủy quyền không hủy ngang, vô thời hạn cho NHNN hoặc tổ chức, cá nhân do NHNN chỉ định thực hiện đầy đủ các quyền của cổ đông theo qui định của pháp luật và Điều lệ ngân hàng Southern Bank, Điều lệ ngân hàng Sacombank sau khi nhận sáp nhập Southern Bank đối với toàn bộ số cổ phần tại Sacombank, Southern Bank và ngân hàng sau sáp nhập thuộc quyền sở hữu của ông Trầm Bê và các bên có liên quan. Như vậy, ông Trầm Bê sẽ không tham gia quản trị, điều hành ngân hàng sau sáp nhập". Bài viết này tác giả không phân tích câu chuyện uỷ quyền không huỷ ngang, vô thời hạn vì trên Google có nhiều bài phân tích về vấn đề này, ngoài ra không thể nắm rõ được hợp đồng 2 bên quy định gì về việc uỷ quyền không huỷ ngang, vô thời hạn. Bài viết này tác giả làm rõ câu chuyện pháp nhân có được làm đại diện hay không?

2. Phân tích
Theo k5, điều 139 BLDS thì "Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ". Như vậy, mặc nhiên hiểu rằng chỉ có cá nhân mới có thể là người đại diện theo pháp luật dân sự. Theo điều 141 Luật Thương mại thì "Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện." Như vậy Luật thương mại không giới hạn ai mới có thể làm người đại diện. Do đó, nếu là hợp đồng uỷ quyền dưới sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, người đại diện chỉ có thể là cá nhân. Nếu là hợp đồng đại diện dưới sự điều chỉnh của pháp luật thương mại, người đại diện có thể là cá nhân, pháp nhân, tổ chức,...
Như dẫn dắt tại phần 1, câu chuyện NHNN đại diện cho ông Trầm Bê có hợp pháp hay không cần xác định rõ đây là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại. NHNN là một pháp nhân, một pháp nhân đại diện cho một cá nhân sẽ không hợp pháp theo pháp luật dân sự. Thực tế có rất nhiều nơi không công chứng cho hợp đồng đại diện này. Tuy nhiên, nếu đây là hoạt động trung gian thương mại theo pháp luật thương mại thì việc NHNN đại diện cho ông Trầm Bê hoàn toàn hợp pháp. Để xác định đây có phải là hoạt động trung gian thương mại hay không cần xét đến nội dung của hợp đồng mà 2 bên đã ký, đặc biệt là có mục đích lợi nhuận trong thoả thuận của 2 bên hay không.
Tác giả dẫn chiếu đến một câu chuyện khác để phân tích về vấn đề này. Hiện nay, nhiều công ty nước ngoài uỷ quyền cho các công ty luật tham gia các hoạt động tố tụng thay cho họ. Vậy, hợp đồng uỷ quyền này có hợp pháp? Ở đây, đang nói đến hợp đồng uỷ quyền, không phải hợp đồng dịch vụ pháp lý. Có thể nhận biết đây là hoạt động đại diện cho thương nhân vì công ty nước ngoài, công ty luật Việt Nam đều là thương nhân; có yếu tố sinh lợi trong hoạt động này vì công ty luật sẽ được nhận thù lao. Do đó, pháp nhân có thể là người đại diện trong tình huống này.

3. Kết luận

Tác giả đề xuất nên bỏ khoản 5. điều 139 BLDS vì pháp nhân cũng nên được trao quyền làm người đại diện. Chẳng có lý do gì để ngăn cản pháp nhân làm đại diện cho một pháp nhân hay một cá nhân khác. Thực tế, có rất nhiều các nhu cầu về việc pháp nhân, tổ chức đại diện cho pháp nhân, tổ chức, cá nhân khác, đặc biệt là các trường hợp đại diện cho khách hàng của họ trong các giao dịch. Do đó, pháp luật dân sự nên hợp pháp hoá quan hệ này để quan hệ này được diễn ra hiệu quả trên thực tế.

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

My Article about “Open room” for foreign investors’s ownership ratio under Decree 60/2015/ND-CP

My Article about “Open room” for foreign investors’s ownership ratio under Decree 60/2015/ND-CP

1    1. Introduction
Decree 60/2015/ND-CP (ND 60) by Government will be effective on 01/09/2015. The most important rules from this Decree is the ownership ratio of foreign investors and foreign-invested business organizations in public companies, securities-trading organizations and securities investment funds. This Article will be written to comment the rules and analyse relevant problems.

     2. Rules
Refer to clause 2, article 1 Decree 60; clause 21, article 1 Decree 60 on amending clause 9, supplementing clause 11, 12, 13 article 71 Decree 58/2012/ND-CP (ND 58). The specific rules, analysis, commentary will be written at the part 3.

     3. Analysis
3.1.         What is the room?
Room is the informal word used by investors to describe clause 13, article 2 ND 58 amended by clause 1, article 1 ND 60: “foreign ownership ratio is  the sum of shares with right to vote or capital contribution ownership ratio from all foreign investors and foreign-invested business organizations with 51% of charter capital or more is held by foreign investors in public companies, securities-trading organizations and securities investment funds”. The old rule in Decree 58: “The maximum foreign ownership ratio is the maximum securities that foreign individuals and organizations hold under relevant Vietnamese Laws”. The old rule depends on definition of foreign investor from Law on Investment 2005. Law on Investment 2014 changes that definition, in detail: “Foreign investor means an individual holding a foreign nationality or an organization established under foreign laws making business investment in Vietnam”. Besides, there are foreign-invested business organizations (not a form of foreign investors) when contributing capital, buying shares must satisfy conditions and follow investment procedures applied to foreign investors:
a.     51% of charter capital or more is held by foreign investors, or the majority of the general partners are foreigners if the business organization is a partnership; (F)
b.     51% of charter capital or more is held by the business organizations mentioned in Point a of this Clause; (F1)
c.      51% of charter capital or more is held foreign investors and the business organizations mentioned in Point a of this Clause. (F2)
 In brief, F and foreign investors will contribute capital, buy shares under ND 60. F1 and F2 can unlimitedly contribute capital, buy shares in public companies, securities-trading organizations and securities investment funds. It’s the difference between Law on Investment 2014 and ND 60. In my opinion, ND 60 must conform to Law on Investment 2014.
3.2.         Room in public companies:
a.     If an international treaty of which the Socialist Republic of Vietnam is a member contains provisions about foreign ownership ratio, the provisions of such international treaty shall apply.
b.     If public companies operate in business lines and sectors for which the laws have specific provisions on the foreign-ownership ratio, these specific provisions apply for them. If public companies operate in business lines and sectors, in which there have been conditions applicable to foreign investor, but there have been no specific provisions on foreign ownership ratio, the maximum foreign ownership ratio is 49 percent.
c.      If public companies operate in multi-business lines and multi-sectors; and there have been other regulations on foreign-investor ownership applicable to each business line and sector, the maximum foreign ownership ratio in these companies do not exceed the lowest level of a business line or sector provided in the regulations on foreign ownership, except for international treaties that have some other provisions.
d.     Except that cases, the foreign ownership ratio is not limited except the company charter has other provisions.
Nowadays, there are no legal normative document indicating what the condition investment, business lines applied to foreign investors are. Appendix 4 of Law on Investment 2014 is the list of conditional business, invesment lines. Is this list the same as list of condition investment, business lines applied to foreign investors as indicated in ND 60? I think this list can be applied to foreign investors because Foreign investors and F’s nvestment, business activities are regulated by Law on Investment 2014. Therefore, this list is applied to both Vietnames investors, foreign investors and foreign – invested business organization. In brief, clause b indicated above will be referred to list of conditional investment, business lines in Law on Investment 2014 (includes 267 conditional investment, business lines), in international agreement to which Vietnam is a member and in other legal normative documents by the National Assembly.
3.3.         Room in securities investment funds and securities - trading organizations:
       a. Foreign investors may own an indefinite amout of charter capital invested in securities – trading organizations, fund certificates invested in securities investment funds.
      b.  A foreign investor who is an organization under clause 10, article 71, ND 58 may own 100% ratio of charter capital invested in a securities – trading organization; establish a wholly foreign – invested securites – trading organization. In case a foreign investors who is an individual or not a organization under clause 10, article 71, ND 58 may only own below 51% charter capital invested in securities – trading organizations.

In brief, room in securities investment funds and securities - trading organizations is 100% if their owners allow that. However, if only one foreign investor who is an organization or an individual “control” securities – trading organizations, he must conform to clause b above.

      4. Conclusion
There are a lot of public companies which is full or ready to be full of room, such as: HCM, SSI, VNM, JVC, DHG, FPT, REE,..To know whether they can be allowed to open room or not, they must depend on some legal normative documents guiding ND 60, Law on Investment 2014. Only one thing is sure: public companies are securities – trading organizations allowed to open room up to 100% under General Meeting of Shareholders’s decision. 

Bình luận “nới room” qua Nghị định 60/2015/NĐ-CP

Bình luận “nới room” qua Nghị định 60/2015/NĐ-CP


      1. Đặt vấn đề
 Ngày 01/09/2015, Nghị định 60/2015/NĐ-CP (NĐ 60) của Chính phủ chính thức có hiệu lực, trong đó các quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài trong các công ty đại chúng, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán (room) là điều được quan tâm nhất. Bài viết bình luận các quy định này, cũng như lý giải các vấn đề liên quan.

 2. Các quy định
 Toàn bộ các quy định về room được nêu chi tiết trong khoản 2, Điều 1 NĐ 60; khoản 21, Điều 1 NĐ 60 sửa đổi khoản 9, bổ sung khoản 11, 12, 13 Điều 71 Nghị định 58/2012/NĐ-CP (NĐ 58). Phần bình luận sau sẽ nêu cụ thể các quy định, cũng như phân tích, bình luận các quy định đó.

 3. Bình luận
 Thế nào là room?
Room là từ ngữ được các nhà đầu tư chứng khoán sử dụng như cách nói ngắn gọn cho khoản 13, NĐ 58 đã được sửa đổi bởi NĐ 60. Theo đó, room là “Tỷ lệ sở hữu nước ngoài là tổng tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp có quyền biểu quyết của tất cả nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên trong một công ty đại chúng, tổ chức kinh doanh chứng khoán hoặc quỹ đầu tư chứng khoán”. Trước đó, NĐ 58 quy định “Tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa là tỷ lệ sở hữu chứng khoán mà cá nhân, tổ chức nước ngoài được nắm giữ tối đa trong một doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Quy định cũ được viết dựa trên các quy định của Luật đầu tư 2005 về nhà đầu tư nước ngoài. Sau này, Luật đầu tư 2014 ra đời đã định nghĩa lại khái niệm “nhà đầu tư nước ngoài”, do đó room theo NĐ 58 cũng phải thay đổi theo các quy định của Luật đầu tư mới. Vì vậy, NĐ 60 ra đời sửa đổi khái niệm này để phù hợp với các quy định tại Luật đầu tư 2014. Cụ thể, “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”[1]. Tuy nhiên, tại khoản 1, Điều 23 Luật đầu tư 2014 đã quy định thêm một chủ thể nữa không phải là nhà đầu tư nước ngoài nhưng khi thực hiện các hoạt động góp vốn, mua cổ phần phải tuân theo các quy định như nhà đầu tư nước ngoài, đó là các tổ chức kinh tế:
a.     Có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên hoặc có đa số thành viên hợp danh là cá nhân nước ngoài đối với tổ chức kinh tế là công ty hợp danh (F);
b.     Có tổ chức kinh tế quy định tại điểm a khoản này nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên (F1);
c.      Có nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế quy định tại điểm a khoản này nắm giữ từ 51 % vốn điều lệ trở lên (F2).
Như vậy, quy định về room trong NĐ 60 cho các tổ chức kinh tế được đối xử như nhà đầu tư nước ngoài chỉ giới hạn ở điểm a, khoản 1, Điều 23 Luật đầu tư 2014. Do đó, các F1, F2 có thể mua không hạn chế cổ phần tại các công ty đại chúng ở Việt Nam. Như vậy, các quy định về room mong muốn hạn chế sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài với các công ty đại chúng là chưa hiệu quả vì các F1, F2 có thể có toàn quyền kiểm soát các công ty đại chúng, mà kiểm soát các F1, F2 này lại là các nhà đầu tư nước ngoài.

 Room với các công ty đại chúng:
a) Trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì thực hiện theo điều ước quốc tế;

b) Trường hợp công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh mà pháp luật về đầu tư, pháp luật liên quan có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài thì thực hiện theo quy định tại pháp luật đó.

Đối với công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài mà chưa có quy định cụ thể về sở hữu nước ngoài, thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa là 49%;

c) Trường hợp công ty đại chúng hoạt động đa ngành, nghề, có quy định khác nhau về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài không vượt quá mức thấp nhất trong các ngành, nghề (mà công ty đó hoạt động) có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định khác;

d) Đối với công ty đại chúng không thuộc các trường hợp quy định tại Điểm a, b, c Khoản này, tỷ lệ sở hữu nước ngoài là không hạn chế, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác.
Hiện nay, không có văn bản quy phạm pháp luật nào liệt kê đầy đủ các ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài. Tại Phụ lục 4 của Luật đầu tư 2014 có liệt kê danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Vậy danh mục này có đồng nghĩa với “ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài” hay không? Hoạt động đầu tư, kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài, F là đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư 2014. Do đó, danh mục này cũng được áp dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài và F. Ngoài ra, theo điều 8 Luật đầu tư 2014, chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung danh mục ngành nghề kinh doanh, đầu tư có điều kiện. Do đó, điểm b ở trên chỉ phụ thuộc vào 267 ngành nghề kinh doanh, đầu tư có điều kiện trong Phụ lục 4 này và các ngành nghề kinh doanh, đầu tư có điều kiện trong các điều ước quốc tế (nếu có). Như vậy, đầu tiên room phải tuân theo quy định về room trong các điều ước quốc tế. Thứ hai, room phải tuân theo quy định về room trong các pháp luật có liên quan. Thứ ba, nếu là công ty đại chúng hoạt động trong 267 ngành nghề kinh doanh, đầu tư có điều kiện mà không có quy định về room thì mặc định room là 49%. Thứ tư, Công ty đại chúng hoạt động đa ngành thì room là mức thấp nhất của ngành nghề có quy định về room. Không thuộc các trường hợp trên thì room do Đại hội đồng cổ đông công ty đại chúng tự quyết định.

 Room với các quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán:
a.     Nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư không hạn chế vào chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán, cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán, cổ phiếu không có quyền biểu quyết của công ty đại chúng, chứng khoán phái sinh, chứng chỉ lưu ký, trừ trường hợp điều lệ của tổ chức phát hành có quy định khác[2].
b.     Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức đáp ứng điều kiện quy định tại Khoản 10 Điều 71, NĐ 58 thì được mua để sở hữu đến 100% vốn điều lệ của tổ chức kinh doanh chứng khoán; được thành lập tổ chức kinh doanh chứng khoán 100% vốn nước ngoài. Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức không đáp ứng quy định tại Khoản 10 Điều 71, NĐ 58 hoặc là cá nhân thì chỉ được sở hữu dưới 51% vốn điều lệ của tổ chức kinh doanh chứng khoán
Như vậy, room dành cho nhà đầu tư nước ngoài có thể lên tới 100% tuỳ vào quyết định của chủ sở hữu tổ chức kinh doanh chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, nếu chỉ một tổ chức nước ngoài, một cá nhân nước ngoài muốn “thâu tóm” tổ chức kinh doanh chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán thì buộc phải tuân theo điểm b như trên.

     4.  Kết luận
 Có rất nhiều cổ phiếu đã kín hoặc gần kín room trên TTCK VN như: HCM, SSI, VNM, JVC, DHG, FPT, REE,..Tuy nhiên, để biết liệu từ ngày 01/09/2015, các cổ phiếu này có thể được nới room hay không cần phải dựa thêm vào các văn bản pháp luật hướng dẫn thêm về NĐ 60, các ngành nghề mà các doanh nghiệp kinh doanh có rơi vào các trường hợp đã phân tích ở trên hay không. Chỉ có một điều chắc chắn là các cổ phiếu thuộc dòng chứng khoán được nới room 100% nếu Đại hội đồng cổ đông đồng ý. Các cổ phiếu khác thì còn phải tiếp tục chờ…





[1] Khoản 14, Điều 3 Luật đầu tư 2014
[2] Khoản 4, Điều 2a bổ sung sau Điều 2, NĐ 58/2012/NĐ-CP theo NĐ 60/2015/NĐ-CP  

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

Bình luận các quy định trong Quy chế ban hành theo Quyết định 637/UBCK năm 2011 về chứng khoán được phép mua ký quỹ

Bình luận các quy định trong Quy chế ban hành theo Quyết định 637/UBCK năm 2011 về chứng khoán được phép mua ký quỹ

1. Đặt vấn đề
  Không phải chứng khoán nào cũng được phép mua ký quỹ. Muốn "lọt" vào danh sách mua ký quỹ của công ty chứng khoán, chứng khoán niêm yết phải trải qua 3 vòng, vòng một từ các quy định của UBCKNN, vòng hai từ Sở giao dịch chứng khoán và vòng ba từ các công ty chứng khoán. UBCKNN nêu ra các điều kiện chung để "loại" những chứng khoán không đủ tiêu chuẩn ra khỏi danh sách chứng khoán có thể mua ký quỹ. Trên cơ sở đó, Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh công bố danh sách chứng khoán không được phép giao dịch ký quỹ trên HOSE và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội công bố danh sách chứng khoán không được phép giao dịch ký quỹ trên sàn HNX. Từ đó, các công ty chứng khoán lựa chọn danh sách chứng khoán được phép mua ký quỹ phù hợp với mình.

2. Bình luận
 Chỉ có cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung, là sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) mới nằm trong danh mục ký quỹ. Đồng thời, UBCKNN đặt ra các điều kiện để loại các chứng khoán ra khỏi danh mục có thể ký quỹ trong Điều 10 của Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011 là hợp lý vì nó đảm bảo sự an toàn cho các nhà đầu tư, công ty chứng khoán, tổ chức phát hành và cả TTCK:
 Thứ nhất, “Có thời gian niêm yết dưới 06 tháng tính đến thời điểm công bố danh sách; trường hợp cổ phiếu chuyển sàn niêm yết thì thời gian niêm yết được tính là tổng thời gian niêm yết ở cả hai Sở Giao dịch chứng khoán”[1]. Quy định thời gian tối thiểu niêm yết để đảm bảo cổ phiếu đó đã được thị trường nhận diện, theo dõi. Các chủ thể tham gia, quản lý thị trường đã có những hiểu biết nhất định về cổ phiếu đó, qua đó giúp khách hàng đầu tư hợp lý hơn, các công ty chứng khoán và cơ quan Nhà nước quản lý tốt hơn.
 Thứ hai, “Bị đặt trong tình trạng bị tạm ngừng giao dịch, bị đưa vào diện cảnh báo, bị hủy niêm yết, bị đưa vào diện kiểm soát”[2]. Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ của các tổ chức phát hành đang có vấn đề trong hoạt động của mình dẫn đến bị tạm ngừng giao dịch, cảnh báo,…thì không được phép mua ký quỹ. Đây là quy định hợp lý để đảm bảo cho quyền lợi nhà đầu tư và thị trường. Một cổ phiếu đã rơi vào tình trạng như vậy thường do kinh doanh kém, gặp các vấn đề về tài chính và quản trị, do đó không thể hi vọng gì vào việc trong ngắn hạn nó sẽ tăng giá. Mà mục đích của mua ký quỹ là mong muốn nó tăng giá. Tương tự như vậy là trường hợp “Kết quả kinh doanh của tổ chức niêm yết chứng khoán là có lỗ căn cứ trên báo cáo tài chính gần nhất đã kiểm toán hoặc có ý kiến soát xét của tổ chức kiểm toán (tùy trường hợp nào gần nhất thời điểm xem xét); Trường hợp tổ chức niêm yết là quỹ đầu tư đại chúng, có tối thiểu một tháng có giá trị tài sản ròng (NAV) tính trên một đơn vị chứng chỉ quỹ nhỏ hơn mệnh giá căn cứ trên báo cáo thay đổi giá trị tài sản ròng hàng tháng xét trong 03 tháng liên tiếp tính đến thời điểm được lựa chọn để giao dịch ký quỹ”[3].
     Ngoài ra, còn có một số hạn chế mua ký quỹ đối với một số trường hợp sau:
 Thứ nhất, hạn chế dòng tiền mua ký quỹ đi vào các cổ phiếu liên quan tới công ty chứng khoán mà khách hàng mở tài khoản bằng việc không cho phép mua ký quỹ trong trường hợp: “Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư do chính công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành trong vòng sáu (06) tháng tính từ khi hoàn tất đợt phát hành”[4], “cổ phiếu của công ty niêm yết sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán và đối với cổ phiếu của công ty niêm yết do công ty chứng khoán sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ”[5], “cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành”[6]. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư trên TTCK. Rõ ràng, sẽ là không công bằng nếu công ty chứng khoán dùng vốn của mình cho các nhà đầu tư mua lại các cổ phiếu, chứng chỉ quỹ liên quan tới quyền lợi của mình. Ví dụ, nếu cho phép khách hàng mua ký quỹ cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành thì chẳng khác nào cho khách hàng dùng tiền của mình mua lại cổ phiếu của chính mình, qua đó làm tăng giá bất hợp lý cổ phiếu của mình, ảnh hưởng xấu tới thị trường. Đồng thời, khi tài khoản giao dịch ký quỹ đó rơi vào tình trạng phải bán giải chấp thì công ty chứng khoán lại phải bán giải chấp cổ phiếu của chính mình phát hành. Ngoài ra, các công ty chứng khoán chắc chắn biết rõ tình hình kinh doanh của mình. Khi đó, vì lợi nhuận hoặc một mục đích nào đó, công ty chứng khoán sẽ phát hành các báo cáo, phân tích khuyến khích khách hàng mua cổ phiếu của chính mình, cho dù tình hình kinh doanh của mình không tốt. Điều đó sẽ ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của khách hàng. Thực tế, các công ty chứng khoán đang làm không tốt việc này. Trong danh mục cổ phiếu được phép mua ký quỹ cập nhật tại website cafef.vn[7], SSI cho khách hàng mua ký quỹ cổ phiếu SSI, tương tự là FPTS với cổ phiếu FPT, công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam (CTS) với cổ phiếu CTG[8], công ty cổ phần chứng khoán ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BSI) với cổ phiếu BID[9],…Vấn đề này xuất phát từ áp lực về lợi nhuận của các công ty chứng khoán, các cổ phiếu SSI, FPT, CTG, BID,… là các cổ phiếu rất được quan tâm trên TTCK, thanh khoản cao, cho phép khách hàng mua ký quỹ là đem lại doanh thu mua ký quỹ và phí giao dịch lớn cho các công ty chứng khoán, từ đó tăng lợi nhuận cho họ. Các hoạt động này đã diễn ra từ rất lâu và vẫn chưa thấy bất kỳ công ty chứng khoán nào bị phạt. Điều này tạo ra sự bất công bằng với các công ty chứng khoán khác và đôi khi ảnh hưởng tới quyền lợi của nhà đầu tư. Chế tài xử phạt đã có, “Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với công ty chứng khoán vi phạm quy định về giao dịch ký quỹ chứng khoán”[10], do đó rất cần UBCKNN kiểm tra và xử phạt với các trường hợp này để đem lại sự lành mạnh cho TTCK.
 Thứ hai, “khi khách hàng không bảo đảm tỷ lệ ký quỹ theo quy định tại Hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ và các quy định tại Quy chế này”[11]. Quy định này nhằm tránh rủi ro cho công ty chứng khoán. Vì nếu khách hàng mua ký quỹ mà không đảm bảo tỷ lệ ký quỹ sẽ gây rủi ro cho các công ty chứng khoán trong việc thu hồi lại khoản vay. Cũng giống như các ngân hàng làm mọi cách để hạn chế nợ xấu thì đây cũng là một cách để công ty chứng khoán phòng chống nợ xấu cho mình.

3. Kết luận.
 Các quy định hiện nay của UBCKNN là tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tế việc áp dụng các quy định trên của các chủ thể tham gia TTCK, thậm chí cả việc áp dụng các quy định do chính mình ban hành để quản lý TTCK của UBCKNN cũng chưa tốt. Do đó, cần thiết tất cả các chủ thể tham gia TTCK tuân thủ triệt để các quy định pháp luật nhằm đảm bảo sự vận hành minh bạch, công bằng của TTCK.




[1] Điều 10 khoản 1 Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[2] Điều 10 khoản 2 Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[3] Điều 10 khoản 3 Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[4] Điều 12 khoản 1 điểm a Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[5] Điều 12 khoản 1 điểm b Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[6] Điều 12 khoản 1 điểm c Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.
[7] Dữ liệu tại http://s.cafef.vn/margin/company.chn#data, truy cập ngày 14/07/2015.
[8] Mã cổ phiếu ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng này cũng là công ty mẹ của CTS.
[9] Mã cổ phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng này là công ty mẹ của BSI.
[10] Điều 21 khoản 3 điểm g 108/2013/NĐ-CP.
[11] Điều 12 khoản 1 điểm d Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011.

Thứ Hai, 3 tháng 8, 2015

Bình luận về vụ tranh chấp giữa FPTS và khách hàng trong việc bán giải chấp ở tài khoản Margin

Bình luận về vụ tranh chấp giữa FPTS và khách hàng trong việc bán giải chấp ở tài khoản Margin


1. Vấn đề
    Xem thêm diễn biến tranh chấp này tại Anh Việt, “Thực hư việc nhà đầu tư tố cáo môi giới FPTS”, http://tinnhanhchungkhoan.vn/chung-khoan/thuc-hu-viec-nha-dau-tu-to-cao-moi-gioi-fpts-110166.html, truy cập ngày 14/07/2015.
    Tóm tắt vụ việc như sau: Khách hàng mở tài khoản giao dịch ký quỹ tại Công ty chứng khoán FPT (FPTS). Khách hàng được cấp hai tài khoản là tài khoản thường và tài khoản giao dịch ký quỹ. Khách hàng mua cổ phiếu PVB trên cả hai tài khoản. Giai đoạn đó, giá cổ phiếu PVB sụt giảm mạnh khiến tài khoản ký quỹ của nhà đầu tư rơi vào tình trạng hụt tiền ký quỹ, tức là vượt khỏi ngưỡng an toàn. Khách hàng quyết định bán cổ phiếu PVB trong tài khoản thường nên tài khoản thường đang có một lượng dư tiền mặt lớn, đủ đề bù đắp hụt tiền ký quỹ. Tuy nhiên, tài khoản ký quỹ của khách hàng thì lại đang sử dụng tối đa tiền vay để mua cổ phiếu PVB. Khi đó, FPTS đã thông báo tới khách hàng và quyết định bán giải chấp cổ phiếu PVB trong tài khoản giao dịch ký quỹ. Khách hàng phản đối vì cho rằng tiền trong tài khoản thường còn rất nhiều, đủ đề bù đắp thiếu hụt tiền ký quỹ trong tài khoản giao dịch ký quỹ, không đồng ý với việc bán giải chấp của FPTS.

2. Bình luận
  Thứ nhất, khách hàng và FPTS đã ký hợp đồng sử dụng dịch vụ giao dịch ký quỹ này, do đó trước hết cần theo dõi các điều khoản của hợp đồng có quy định về vấn đề này hay không[1]? Đọc hợp đồng mẫu của FPTS sẽ không thể tìm thấy thỏa thuận của hai bên về việc công ty chứng khoán có thể tự động chuyển đổi qua lại tiền và chứng khoán của hai tài khoản. Chỉ có nhà đầu tư mới được phép tự mình chuyển đổi tiền và chứng khoán qua lại giữa hai tài khoản.
  Thứ hai, tại điểm a, khoản 3, Điều 8 của Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011 thì một nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài khoản giao dịch ký quỹ là “Tài khoản giao dịch ký quỹ phải được quản lý tách biệt với tài khoản giao dịch thông thường”. Như vậy, hai tài khoản này độc lập với nhau.
 Do đó, trường hợp này công ty chứng khoá FPTS đã đúng khi bán giải chấp cổ phiếu khi tài khoản ký quỹ rơi vào tình trạng vượt ngưỡng an toàn. Khách hàng không thể viện dẫn lý do tài khoản thường còn tiền để buộc công ty chứng khoán phải trích tiền từ tài khoản thường sang tài khoản ký quỹ.
     Quy định như vậy của UBCKNN có hợp lý hay không? Theo tác giả, các công ty chứng khoán trong hoạt động quản lý giao dịch ký quỹ với khách hàng luôn là bên có nhiều lợi thế. Do đó, thiết nghĩ pháp luật nên quy định các công ty chứng khoán cần có nghĩa vụ hoạt động vì lợi ích của khách hàng. Trong tranh chấp trên, công ty chứng khoán hoàn toàn biết được tiền của khách hàng tại hai tài khoản là bao nhiêu, chứng khoán đang ở tình trạng nào. Do đó, sẽ là hợp lý hơn nếu như pháp luật cho phép công ty chứng khoán khấu trừ tiền trong tài khoản thường để bù trừ thiếu hụt tiền trong tài khoản giao dịch ký quỹ. Điều này sẽ giúp khách hàng bớt đi thủ tục chuyển tiền từ tài khoản thường sang tài khoản giao dịch ký quỹ hoặc phải nạp thêm tiền vào tài khoản giao dịch ký quỹ hoặc phải bán bớt cổ phiếu trong tài khoản giao dịch ký quỹ khi không muốn thực hiện chuyện đó. Quan trọng hơn là công ty chứng khoán cũng không thiệt hại gì từ việc này, đặc biệt là khi khách hàng không phải lúc nào cũng ở trong tình trạng có thể giải quyết việc thiếu hụt tiền trong tài khoản giao dịch ký quỹ nhanh chóng. Nếu khách hàng đang bận du lịch, ở nơi không có Internet, bận việc riêng,…dẫn đến không giải quyết chuyện hụt tiền trong tài khoản giao dịch ký quỹ, còn công ty chứng khoán không thông thoáng bù tiền qua lại 2 tài khoản sẽ dẫn đến thiệt hại lớn cho khách hàng. Thiết nghĩ, UBCKNN nên thay đổi quy định này để bảo vệ tốt hơn nữa quyền lợi cho nhà đầu tư. Cũng là vấn đề đó nhưng liên quan đến quyền lợi của công ty chứng khoán là nếu giá cổ phiếu mà khách hàng mua ký quỹ giảm mạnh, đồng thời thanh khoản kém thì công ty chứng khoán không thể bán giải chấp cổ phiếu đó được vì không ai mua. Vậy công ty chứng khoán có được chuyển tiền từ tài khoản thường của khách hàng để bù trừ thiếu hụt bên tài khoản giao dịch ký quỹ hay không? Theo pháp luật hiện hành thì điều này là không được và công ty chứng khoán phải gánh chịu rủi ro cho mình. Do đó, cần thiết để UBCKNN nên quy định thêm về vấn đề này.  

3. Kết luận
 Khi giá cổ phiếu lên giá, ai cũng "sung sướng", khi giá giảm ai cũng "buồn". Tệ hại hơn nữa là giá giảm mạnh đến mức phải bán giải chấp. Thiết nghĩ, pháp luật chứng khoán cần quy định cụ thể hơn về vấn đề này để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy nhà đầu tư khó có thể "kỳ kèo" sửa đổi các hợp đồng giao dịch ký quỹ mẫu với các công ty chứng khoán vì nhiều lý do như kiến thức có hạn, lợi thế của công ty chứng khoán, không lường trước vấn đề,...Vì vậy, chỉ có pháp luật mới có thể "giúp đỡ" các nhà đầu tư trong các vấn đề này.



[1]Xem thêm Hợp đồng giao dịch ký quỹ mẫu của FPTS tại https://eztrade.fpts.com.vn/upload/HopDongGiaoDichKyQuy pdf.

Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2015

Phân tích thuật ngữ mua ký quỹ trong giao dịch ký quỹ trên Thị trường chứng khoán

Phân tích thuật ngữ mua ký quỹ trong 
giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán


   1. Đặt vấn đề
   Giao dịch ký quỹ gồm mua ký quỹ và bán khống chứng khoán. Đây là hai hoạt động độc lập, có nội dung khác nhau nhưng đều là một phần của giao dịch ký quỹ. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép mua ký quỹ và cấm bán khống chứng khoán. Bài viết này tập trung làm rõ thuật ngữ mua ký quỹ theo các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành.

  2. Phân tích
  Có sự khác nhau trong định nghĩa về “mua ký quỹ” giữa Bộ tài chính (BTC) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (SGDCK HN). Cụ thể, “Giao dịch mua ký quỹ chứng khoán (margin) là giao dịch mua chứng khoán của khách hàng có sử dụng tiền vay của công ty chứng khoán và sử dụng các chứng khoán khác có trong tài khoản và chứng khoán mua được bằng tiền vay để cầm cố”[1] là cách định nghĩa của BTC. Còn SGDCK HN định nghĩa “Mua ký quỹ (margin purchase), người đầu tư chỉ cần có một phần tiền trong tổng giá trị số chứng khoán đặt mua, phần còn lại do công ty chứng khóan cho vay. Sau khi giao dịch được thực hiện, số chứng khoán đã mua của khách hàng được công ty chứng khoán giữ lại làm thế chấp cho khoản vay”[2].
     Hai điểm khác nhau cơ bản trong hai định nghĩa này:
 Thứ nhất, BTC dùng từ “margin”, còn SGDCK HN dùng từ “margin purchase” để nói về giao dịch mua ký quỹ chứng khoán. Theo tác giả, cách dùng từ của SGDCK HN là chính xác hơn. Giao dịch mua ký quỹ chứng khoán không đồng nghĩa với “margin”. “Margin” theo từ điển Lạc Việt Anh–Việt thì mang nghĩa là số dư. Ở đây, “margin account” thể hiện một tài khoản có số dư, số dư tiền hoặc chứng khoán. Giao dịch trên “margin account” (tài khoản giao dịch ký quỹ), hay còn gọi là “margin trading”, nói ngắn gọn lại là giao dịch ký quỹ. Việc nhà làm luật dùng dấu ngoặc đơn để nói rằng giao dịch mua ký quỹ chứng khoán là “margin” vô tình đã làm sai đi khái niệm “margin”. Có thể hiểu ý chí của BTC khi ban hành thông tư này là do chúng ta chưa cho phép bán khống nên “margin” cứ tạm hiểu là mua ký quỹ. Điều này sẽ dẫn đến một ngày khi chấp nhận bán khống, nhà làm luật sẽ lại phải sửa khái niệm về mua ký quỹ này. Rõ ràng, một văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành cần sự chính xác về từ ngữ, đồng thời nên dự trù cho những khả năng phát sinh trong tương lai.
 Thứ hai, chứng khoán mua về được cầm cố (theo cách viết của TT số 74/2011/TT-BTC) hay thế chấp (theo thuật ngữ mà SGDCK HN sử dụng)? Theo tác giả, cách dùng từ của BTC là đúng. Theo khoản 1, Điều 1 của Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”. Mà giấy tờ có giá thì đương nhiên là chỉ có thể được cầm cố chứ không thể thế chấp được. BLDS 2005 quy định “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”[3]. “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp”[4]. Như vậy, hiểu đơn giản là cầm cố thì chuyển giao tài sản cho bên kia, còn thế chấp thì không. Với các loại cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán hiện nay thì thường tồn tại dưới hình thức dữ liệu điện tử, mà tại đó, khi khách hàng dùng nó để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ với công ty chứng khoán thì công ty chứng khoán sẽ phong toả, quản lý chứng khoán ấy. Chứng khoán ấy nằm trong tài khoản của khách hàng, nhưng tài khoản của khách hàng thì được quản lý bởi công ty chứng khoán. Muốn bán các chứng khoán ấy, khách hàng phải thực hiện lệnh thông qua công ty chứng khoán. Do đó, có thể nói chứng khoán đã được chuyển giao cho công ty chứng khoán, nên dùng từ “cầm cố” là hợp lý. Tham khảo cách hiểu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tại điểm c, 2.1, mục I, Thông tư số 07/2003/TT-NHNN thì cổ phiếu là tài sản có thể cầm cố. Tham khảo Điều 338 Dự thảo sửa đổi BLDS 2005 của Bộ tư pháp cũng có nói đến “cầm cố chứng khoán”. Có thể thấy, các văn bản và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hiện nay đang khá nhất quán về câu chuyện cầm cố chứng khoán, chứ không phải thế chấp chứng khoán. Tuy nhiên trên thực tế, không chỉ SGDCK HN mà còn rất nhiều công ty chứng khoán, báo chí,…hay gặp phải lỗi sai này, hoặc là dùng từ “thế chấp cổ phiếu”, “bán giải chấp “ (là bán chứng khoán đang được thế chấp) hoặc là “cầm cố, thế chấp cổ phiếu”. Ngay cả quy chế về giao dịch ký quỹ do UBCKNN ban hành với Quyết định 637/QĐ-UBCK năm 2011 cũng dùng từ “thế chấp” đối với chứng khoán trong chương 6, “Quy định về ký quỹ, thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế chấp”. Do đó, cần thống nhất rằng chứng khoán (ở đây đang nói đến cổ phiếu và chứng chỉ quỹ vì giao dịch ký quỹ chỉ áp dụng với hai loại chứng khoán này) là được cầm cố chứ không phải thế chấp.


   3. Kết luận 
   Các quy định của pháp luật luôn đòi hỏi sự chính xác về ngôn ngữ. Bài viết trên nhằm chỉ rõ cách sử dụng từ ngữ chưa chính xác về mua ký quỹ trong các văn bản pháp luật chứng khoán. Nội dung bài phân tích được trích dẫn từ Luận văn tốt nghiệp "Pháp luật về giao dịch ký quỹ trên thị trường chứng khoán" đạt điểm 9.5 của tác giả tại khoa Luật Thương mại, trường ĐH Luật TPHCM năm 2015.



[1] Điều 2, khoản 8 Thông tư 74/2011/TT-BTC.
[2] Mục 58 tại http://hnx.vn/web/guest/thuat-ngu, truy cập ngày 14/07/2015.
[3] Điều 326 Bộ luật dân sự.
[4] Điều 342 khoản 1 Bộ luật dân sự.

Bình luận về nội dung quy tắc tố tụng trong thoả thuận trọng tài

Bình luận về nội dung quy tắc tố tụng trong thoả thuận trọng tài

1.      Đặt vấn đề
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên. Do đó, một trong những nguyên tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng thương mại là tự do thỏa thuận. Các bên có thể thỏa thuận các vấn đề về đối tượng mua bán, giá cả, thời gian, địa điểm giao hàng, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên… Để các tranh chấp từ hợp đồng có thể giải quyết tại VIAC, các bên cũng cần một thỏa thuận trước: thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, thực tế có nhiều tranh chấp dù đã có thoả thuận về trọng tài trước đó nhưng khi đưa vụ việc ra các trung tâm trọng tài thì vẫn không được thụ lý. Bài viết này sẽ bình luận về nội dung quy tắc tố tụng trong thoả thuận trọng tài để giải quyết về vấn đề đó.
2.      Bình luận
Theo Điều 5 LTTTM: “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp”. Tại Điều 6 Quy tắc VIAC 2012 cũng quy định: “Kèm theo đơn khởi kiện phải có thỏa thuận trọng tài và các tài liệu khác có liên quan”. Như vậy, đây là điều kiện tiên quyết bắt buộc để các bên đưa tranh chấp ra VIAC giải quyết. Nhưng thỏa thuận trọng tài thế nào là đúng? Nếu trong hợp đồng thỏa thuận nơi giải quyểt tranh chấp là VIAC còn quy tắc tố tụng lại là của trung tâm trọng tài khác thì VIAC có xem đây là thỏa thuận trọng tài đúng và đứng ra giải quyết không? Dưới đây là một vụ việc thực tế khi các bên lựa chọn VIAC là nơi giải quyết tranh chấp, và quy tắc tố tụng áp dụng sẽ là của ICC.
Tại hợp đồng, người bán và người mua thỏa thuận mua bán phân bón. Tại điều 20 của hợp đồng hai bên cũng đã thỏa thuận: “Bất kỳ tranh chấp nào phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này, kể cả các tranh chấp về sự tồn tại, hiệu lực hoặc chấm dứt hợp đồng, sẽ được đưa đến và giải quyết chung thẩm bởi Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghệ Việt Nam tại tp.Hồ Chí Minh hoặc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) theo yêu cầu của nguyên đơn. Quy tắc Hòa giải và Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc Tế (ICC) sẽ được áp dụng…”
Cũng như VIAC ở Việt Nam, ICC ở Pháp là một trung tâm trọng tài có quy tắc tố tụng riêng biệt. Việc hai bên lựa chọn tổ chức trọng tài là VIAC hoặc SIAC nhưng quy tắc tố tụng áp dụng lại thuộc ICC gây vướng mắc trong việc xác định trung tâm trọng tài có thẩm quyền. Trên thực tế, nguyên đơn đã lựa chọn VIAC là nơi nộp đơn khởi kiện và VIAC đã không thụ lý.
 VIAC đã trả lời nguyên đơn vấn đề này như sau:
“Căn cứ Điều 1 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC về phạm vi áp dụng thì Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC không được áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp và Công ty Liven nêu trên.
Căn cứ khoản 2 Điều 49 Pháp lệnh Trọng tài thương mại của Việt Nam quy định thì Hội đồng trọng tài do Trung tâm Trọng tài tổ chức hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập được áp dụng các quy tắc tố tụng khác, nếu các bên có thỏa thuận. Tuy nhiên, VIAC chỉ có thể thành lập Hội đồng Trọng tài theo Quy tắc tố tụng trọng tài của chính VIAC. Đồng thời, VIAC không thể áp dụng Quy tắc tố tụng trọng tài của Tòa án Trọng tài Quốc tế ICC đề thành lập Hội đồng Trọng tài”.
Tại thời điểm năm 2005, Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đang hiệu lực và cho phép các bên có thể thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng. Tuy nhiên quy định này hoàn toàn không khả thi. Mỗi trung tâm trọng ban hành quy tắc tố tụng riêng và đã được tổ chức sao cho hợp với quy tắc tố tụng của mình. Tương tự như việc không tưởng là yêu cầu Tòa án Việt Nam sử dụng luật tố tụng của quốc gia khác. Đến năm 2010 khi ban hành Luật TTTM vấn đề này cũng đã được đưa ra xem xét và thay đổi. Tại Khoản 6 Điều 3 LTTTM quy định: “Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của Luật này và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó”.
Quay lại với vụ việc giữa hai bên, sau khi bị VIAC từ chối thụ lý đơn, nguyên đơn đã gửi đơn khởi kiện lên Trung tâm trọng tài Quốc Tế ICC. Nhưng một lần nữa, đơn khởi kiện bị từ chối thụ lý. Tại thư trả lời của ICC viết rằng: “ Nếu các bên đồng ý áp dụng Quy tắc Trọng tài ICC, Trung tâm trọng tài phải là Trọng tài Quốc tế ICC. Không tổ chức nào khác có quyền xét xử trong trường hợp này. Vì Trọng tài ICC đóng vai trò quan trọng trong nhiều bước của tiến trình giải quyết vụ án như chỉ định trọng tài viên hoặc kiểm soát phán quyết trọng tài. Ban thư ký của trọng tài ICC, trụ sở tại Paris cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát các thủ tục theo Quy tắc. Do đó, Trung tâm Trọng tài Quốc tế ICC không có thẩm quyền tiền hành xét xử khi Trung tâm Trọng tài khác được đề cập như là VIAC”.
Như vậy, để hạn chế các rủi ro trong thoả thuận trọng tài, các bên trong hợp đồng cần hiểu và thoả thuận rõ ràng rằng chọn trung tâm trọng tài xét xử nào thì áp dụng quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đó.
3. Kết luận
                 Đưa tranh chấp ra xét xử tại các trung tâm trọng tài đang là một hướng đi mới trong việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại với rất nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, để vụ việc có thể được xét xử tại trung tâm trọng tài, điều kiện tiên quyết là các bên phải có thoả thuận trọng tài. Bài viết trên đã đề cập đến một lỗi thường hay gặp của các bên khi thoả thuận chọn trọng tài giải quyết tranh chấp: Nội dung về quy tắc tố tụng trong thoả thuận trọng tài. Hi vọng bài viết giúp các bên hiểu rõ hơn về nội dung này để tránh các rủi ro dù có thoả thuận trọng tài nhưng vẫn không được các trung tâm trọng tài thụ lý giải quyết tranh chấp.  
Tác giả
Bùi Anh Tú
B.L - B.B.A, Quản trị - Luật K35, ĐH Luật TPHCM